Phê duyệt danh sách các dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù

Phê duyệt danh sách các dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1227/QĐ-TTg phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2021 - 2025.

Danh sách gồm 32 dân tộc còn gặp nhiều khó khăn và 14 dân tộc có khó khăn đặc thù sinh sống ổn định thành cộng đồng trên địa bàn các xã khu vực III và các thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.

Phê duyệt danh sách các dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù ảnh 1 Cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng Pa Ủ giúp bà con dân tộc La Hủ ở bản Hà Si, xã Pa Ủ, huyện Mường Tè (Lai Châu) khai hoang ruộng trồng lúa để bảo đảm lương thực tại chỗ. Ảnh: Việt Hoàng - TTXVN

Theo danh sách, 32 dân tộc còn gặp nhiều khó khăn bao gồm: La Hủ, Phù Lá, La Chí, Kháng, Hà Nhì, Xinh Mun, Co, Tà Ôi, Cơ Tu, Khơ Mú, Bru - Vân Kiều, Mnông, Raglai, Xơ Đăng, Mông, S'tiêng, Gia Rai, Dao, Nùng, Tày, Sán Chay, Lào, Giáy, Giẻ Triêng, Mường, Bahnar, Hrê, Chăm, Ê Đê, Cơ Ho, Khmer, Mạ.


Có 14 dân tộc có khó khăn đặc thù gồm: Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Si La, Cống, Bố Y, Cờ Lao, Mảng, Lô Lô, Chứt, Lự, Pà Thẻn, La Ha.

Căn cứ đề nghị của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban Dân tộc tổng hợp, thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định điều chỉnh, bổ sung danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù theo quy định hiện hành.

Các dân tộc có khó khăn đặc thù được phê duyệt ở trên được tiếp tục thụ hưởng các chính sách áp dụng đối với các dân tộc thiểu số rất ít người đã ban hành và còn hiệu lực.

Theo quy định, dân tộc còn gặp nhiều khó khăn là dân tộc thiểu số sinh sống ổn định thành cộng đồng trên địa bàn các xã khu vực III và các thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định tại Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ và đáp ứng một trong các tiêu chí sau: có tỷ lệ hộ nghèo lớn hơn từ 1,5 lần trở lên so với bình quân chung tỉ lệ hộ nghèo của 53 dân tộc thiểu số; có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, biết viết tiếng phổ thông lớn hơn 1,5 lần so với bình quân chung tỉ lệ người từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, biết viết tiếng phổ thông của 53 dân tộc thiểu số; có tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi lớn hơn 1,5 lần so với bình quân chung tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi của 53 dân tộc thiểu số.

Dân tộc có khó khăn đặc thù là dân tộc thiểu số sinh sống ổn định thành cộng đồng trên địa bàn các xã khu vực III và các thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định tại Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ, có dân số dưới 10.000 người.

TTXVN

TTXVN

Có thể bạn quan tâm