Tỉnh Trà Vinh có tổng dân số hơn 1 triệu người, trong đó, đồng bào dân tộc Khmer chiếm gần 32%. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer là nhiệm vụ trọng tâm luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Trà Vinh ưu tiên thực hiện. Nhờ vậy, đời sống của đồng bào Khmer không ngừng được nâng lên, phum sóc ở Trà Vinh “thay da, đổi thịt” từng ngày.
* Thay đổi nếp nghĩ, cách làm để nâng cao đời sống
Trở lại huyện vùng sâu Trà Cú, địa phương có trên 62% đồng bào dân tộc Khmer, diện mạo vùng quê nghèo ngày nào như khoác trên mình chiếc áo mới. Đường giao thông nông thôn được nhựa hóa, bê tông hóa vào tận phum sóc. Các công trình phúc lợi như trường học, trạm y tế, nhà văn hóa được đầu tư khang trang; nhiều ngôi nhà mới kiên cố “mọc” lên…
Người dân Khmer địa phương đã có nhiều thay đổi trong nếp nghĩ, cách làm, áp dụng hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích. Hầu hết các mô hình chuyển đổi đều cho lợi nhuận tăng gấp nhiều lần, giúp đời sống đồng bào Khmer cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người của huyện hiện đạt 45,5 triệu đồng/người/năm, tăng 5,31 triệu đồng so với năm 2019 và tăng gần 23 triệu đồng/người/năm so với 5 năm trước.
Nền kinh tế của huyện Trà Cú chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đây là địa phương bị ảnh hưởng biến đổi khí hậu nặng nhất tỉnh. Hạn, mặn thường xuyên xâm nhập nội đồng vào mùa khô khiến nhiều diện tích sản xuất bị thiếu nước tưới. Do vậy, huyện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng để thích ứng, nhất là những diện tích trồng lúa, mía kém hiệu quả.
Gia đình chị Sơn Thị Dân, ấp Giồng Lớn A, xã Đại An, huyện Trà Cú có 3 công đất canh tác (1 công = 1.000 m2) trước đây trồng 3 vụ lúa, nhưng năng suất đạt rất thấp, chỉ khoảng 450 kg/công. Năm 2016, gia đình chị được chính quyền địa phương vận động chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Từ nguồn vốn vay ưu đãi 17 triệu đồng của Ngân hàng chính sách xã hội, chị Dân đầu tư mô hình trồng luân canh lúa - ngô - khoai môn sáp và nuôi bò sinh sản. Kết quả, mô hình luân canh cho lợi nhuận mỗi năm trên 20 triệu đồng/công, tăng khoảng 5 lần so với độc canh cây lúa. Cùng với nguồn thu từ nuôi bò, năm 2018, gia đình chị Sơn Thị Dân đã thoát nghèo.
Ở ấp Giồng Lớn A này, có rất nhiều hộ Khmer chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả và thoát nghèo như gia đình chị Sơn Thị Dân. Bí thư Chi bộ ấp Giồng Lớn A Thạch Long cho biết, đồng bào Khmer địa phương chủ yếu sống bằng nghề nông. Cùng với việc vận động nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhà nước đã đầu tư hạ thế điện để phục vụ chuyển đổi. Nhờ có điện sản xuất nên việc tưới tiêu thuận lợi, giảm đáng kể chi phí phí nhân công; năng suất tăng từ 1,5-2 lần so với trước kia. Năm 2012, ấp có gần 200 hộ nghèo thì hiện nay chỉ còn 8 hộ nghèo. Thu nhập bình quân đầu người của ấp hiện đạt 48 triệu đồng/người/năm, tăng 30 triệu đồng/người/năm so với 5 năm trước.
Những năm qua, huyện Trà Cú đã huy động nhiều nguồn lực để thực hiện công tác giảm nghèo bền vững. Các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển được đầu tư xây dựng, duy tu, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho đồng bào vùng sâu, vùng xa đi lại, mua bán, trao đổi hàng hóa thuận lợi. Đồng bào Khmer nghèo trên địa bàn còn được hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, được vay vốn tín dụng, cấp phát thẻ bảo hiểm y tế, được hỗ trợ nhà ở, đất ở, tiền điện, miễn giảm học phí…
Chỉ tính riêng năm 2020, huyện đã huy động tổng số tiền hơn 266 tỷ đồng để thực hiện công tác giảm nghèo bền vững. Nhờ vậy, đời sống của người dân địa phương được nâng lên đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo được kéo giảm từng năm; năm 2020, huyện tiếp tục xóa được hơn 700 hộ nghèo. Đến nay, Trà Cú đã có 9/15 xã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
* Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Với mục tiêu đưa Trà Cú trở thành huyện nông thôn mới trước năm 2023, Đảng bộ và chính quyền huyện Trà Cú tập trung nhiều giải pháp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất của người dân, địa phương phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Ông Dương Văn Triệu, Bí thư Huyện ủy Trà Cú cho biết, nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ huyện quyết tâm phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội, đưa Trà Cú phát triển nhanh và bền vững. Bên cạnh chuyển đổi diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả, địa phương cũng đang xây dựng kế hoạch hỗ trợ nông dân chuyển đổi diện tích trồng mía kém hiệu quả sang cây trồng khác và nuôi thủy sản. Cùng với việc hướng dẫn nông dân về khoa học kỹ thuật trên những cây trồng, vật nuôi mới, huyện Trà Cú đang tích cực tìm kiếm các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông nghiệp để liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giúp đầu ra nông sản ổn định, nông dân địa phương yên tâm chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Theo ông Hà Thanh Sơn, Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh, việc thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào Khmer đã và đang tạo nên diện mạo mới ở nhiều vùng quê trên địa bàn tỉnh. Các chính sách đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo đã tạo sự chuyển biến rõ nét, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Khmer. Đến nay, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, 100% trạm y tế xã có đủ điều kiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế; 100% xã có mạng lưới trường mầm non, phổ thông, trung tâm học tập cộng đông; 76% công trình thủy lợi nhỏ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho diện tích cây trồng hàng năm...
Phum sóc từng ngày đổi mới. Mùa Xuân 2021, cùng với người dân cả nước, đồng bào Khmer Trà Vinh cũng tuân thủ quy định phòng, chống dịch COVID-19, nên không khí những ngày giáp Tết ở phum sóc không tất bật, rộn ràng như mọi năm; nhưng sắc Xuân đang tràn ngập trên những nét mặt phấn khởi của bà con Khmer, hứa hẹn một năm mới sung túc, ấm no, đủ đầy./.
Thanh Hòa
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn