Ngày 24/6, tại thành phố Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với UBND tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2014 - 2020 và Triển khai Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021 - 2025.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cà phê là cây công nghiệp chủ lực của Việt Nam đứng thứ 2 cả nước về diện tích (710 nghìn ha) sau cao su (930 nghìn ha). Năng suất cà phê của Việt Nam cao gấp hơn 3 lần (2,8 tấn/ha) so với năng suất cà phê của thế giới (0,8 tấn/ha). Sản lượng cà phê của Việt Nam đạt 1,7 - 1,8 triệu tấn, đứng thứ 2 sau Braxin (3,7 triệu tấn).
Năm 2021, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt hơn 1,56 triệu tấn, trị giá hơn 3 tỷ USD, giảm 2,7% về lượng, nhưng tăng 9,4% về trị giá so năm 2020. Tính đến năm 2021 có hơn 20 tỉnh trồng cà phê, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên (chiếm khoảng 90% diện tích cà phê cả nước). Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất, xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới; trong đó đứng thứ nhất thế giới nhiều năm liền về sản xuất và xuất khẩu cà phê vối.
Tuy nhiên, từ năm 2012 - 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương và Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam nhận thấy diện tích cà phê già cỗi trên 30 năm, năng suất thấp, trồng chủ yếu từ các giống cà phê thực sinh. Do vậy ngày 21 tháng 10 năm 2014, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ra ban hành Quyết định Số: 4521/QĐ-BNN-TT về việc "Phê duyệt đề án tái canh cà phê các tỉnh vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2020".
Để thực hiện thành công chương trình tái canh cà phê cho các tỉnh Tây Nguyên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các quy trình kỹ thuật hướng dẫn tái canh cà phê, các văn bản hướng dẫn và các cơ chế, chính sách, đề tài, dự án phục vụ cho việc tái canh. Đặc biệt là Đề án tái canh cà phê các tỉnh vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2020 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành. Đề án đã cụ thể hóa và xác định được quy mô, địa bàn, lộ trình từng năm thực hiện tái canh, đi kèm với đó là hoàn thiện quy trình tái canh, sản xuất giống đáp ứng yêu cầu tái canh…
Tổng kết báo cáo của các tỉnh sau khi thực hiện đề án tái canh. Diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê vùng Tây Nguyên từ năm 2014 - 2021 được 129.008,4 ha (đạt trên 107,5% kế hoạch). Tính lũy kế diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê từ năm 2011 - 2021 được 166.579,2 ha.
Hầu hết diện tích cà phê tái canh được trồng bằng giống mới, cây sinh trưởng, phát triển tốt và cho năng suất cao, chất lượng tốt và mang lại hiệu quả kinh tế rất rõ rệt, góp phần vào chương trình phát triển cà phê bền vững.
Chương trình tái canh cà phê đã đem lại một số hiệu quả như: trẻ hóa vườn cây cà phê già cỗi, sâu bệnh, năng suất thấp không còn khả năng phục hồi. Việc tái canh đã không làm giảm năng suất và sản lượng cà phê Việt Nam mà còn tăng năng suất và sản lượng. Năng suất cà phê Việt Nam năm 2011 là 23,5 tạ/ha đã tăng lên 28,2 tạ/ha năm 2021 và sản lượng tăng từ 1,27 triệu tấn lên 1,81 triệu tấn.
Để đạt được kết quả đáng khích lệ này là do được chỉ đạo có hiệu quả của các Bộ ngành Trung ương, Ngân hàng Nhà nước, sự triển khai tích cực, đồng bộ của các địa phương, dự án VnSAT, sự chủ động phối kết hợp của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam với người trồng cà phê và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cà phê.
Tiếp nối thành công của đề án tái canh cà phê giai đoạn 2014 - 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiếp tục phê duyệt đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021 - 2025.
Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021 - 2025 không chỉ thực hiện ở 5 tỉnh Tây Nguyên mà còn được mở rộng ở các tỉnh cà phê khác như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu. Mục tiêu của Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021 - 2025 là phấn đấu trồng tái canh và ghép cải tạo khoảng 107 nghìn ha cà phê; trong đó, trồng tái canh 75 nghìn ha, ghép cải tạo 32 nghìn ha.
Năng suất vườn cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo ở thời kỳ kinh doanh ổn định đạt bình quân 3,5 tấn nhân/ha. Thu nhập/ha cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo tăng 1,5 - 2 lần so với trước khi tái canh.
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, để Đề án tái canh giai đoạn 2021 - 2025 thành công, các địa phương cần tiếp tục rà soát, phân loại, xác định diện tích cà phê già cỗi của từng hộ để xây dựng kế hoạch tái canh, ghép cải tạo cho từng năm sát với thực tế của địa phương. Đối với các diện tích cà phê không có tưới, đất quá dốc, tầng đất mỏng chuyển đổi sang cây trồng khác. Diện tích cà phê già cỗi bắt buộc phải tái canh cần xác rõ định diện tích có thể tái canh ngay, diện tích cần phải luân canh 1 năm, 2 năm hay 3 năm…, kết hợp trồng xen cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm theo Quy trình đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
Bên cạnh đó, các địa phương cần quan tâm hơn nữa đến việc bình tuyển, công nhận cây đầu dòng, vườn cây đầu dòng để nhân nhanh các giống mới đưa vào tái canh. Các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục bổ sung hoàn thiện quy trình tái canh, đặc biệt là quy trình tái canh cho cà phê chè phù hợp với các địa phương như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị.
Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) tiếp tục nghiên cứu, khảo nghiệm để đưa vào sản xuất các giống cà phê mới phục vụ nhu cầu tái canh của các tỉnh, chú ý đến bộ giống cà phê chè phù hợp cho cả vùng miền Trung và vùng Tây Bắc.
Cùng đó, các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các tổ chức quốc tế phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương tiến hành xây dựng các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các lớp tập huấn về tái canh để hỗ trợ trực tiếp người dân trong suốt quá trình tái canh.
Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại tiếp tục có những chính sách ưu tiên cho vay vốn, đơn giản hóa các thủ tục cho vay để người dân có thể tiếp cận được nguồn vốn phục vụ tái canh.
Anh Dũng