Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu  Vĩnh Thuận (Kiên Giang)

Vĩnh Thuận là huyện vùng sâu, vùng xa thuộc vùng U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang), cách trung tâm thành phố Rạch Giá 80 km đường bộ, có địa giới hành chính tiếp giáp với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang. Huyện có diện tích tự nhiên rộng hơn 39.000 ha; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp gần 37.000 ha, chiếm trên 93% diện tích đất tự nhiên.

Vĩnh Thuận có dân số 23.778 hộ, với gần 95.000 khẩu; dân tộc Khmer 1.919 hộ, với trên 7.900 khẩu, chiếm gần 8,3%, sống đan xen với người Kinh, tập trung đông nhất xã Vĩnh Bình Bắc, Phong Đông, Tân Thuận, phát triển kinh tế chủ yếu sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản, một bộ phận đời sống còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer còn khá cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu  Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 1

Nhiều hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) thực hiện theo mô hình tôm-cua có thu nhập hàng năm khá, đã vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Lê Sen

Theo ông Huỳnh Tấn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận, những năm qua, thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, các cấp ủy, chính quyền huyện đã tập trung đồng bộ nhiều giải pháp để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đẩy nhanh tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện. Đồng thời, tập trung chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, giống, cây trồng theo hướng thích hợp, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, đời sống, vật chất của người dân, giảm nghèo bền vững, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Qua thời gian triển khai thực hiện giai đoạn 2014-2019, đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Vĩnh Thuận, như mô hình tôm - cua kết hợp, mô hình nuôi tôm càng xanh, đặc biệt là mô hình tôm - lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Từ hiệu quả của mô hình tôm - lúa, đời sống nhiều hộ dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer từng bước được nâng lên nhờ nâng cao thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm, từ 276 hộ năm 2014, giảm xuống còn gần 150 hộ đầu năm 2020, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng xã nông thôn mới. Đến nay, Vĩnh Thuận có 7/7 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 3 xã có đồng bào dân tộc Khmer được công nhận, diện mạo nông thôn vùng dân tộc được khởi sắc, khang trang hơn so với trước.

Trước đây, bà con trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đa phần là thực hiện sản suất canh tác chuyên canh lúa hoặc chuyên tôm nhưng hiệu quả mang lại không cao và thiếu bền vững. Thực tế cho thấy mô hình chuyên tôm, qua nhiều năm thâm canh liên tục, ao tôm bị lão hóa, mầm bệnh nhiều, nghề nuôi tôm bộc lộ nhiều rủi ro cao và thiếu bền vững; còn đối với mô hình chuyên lúa, do điều kiện biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập nên hiệu quả mang lại không cao.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu  Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 2

Mô hình nuôi tôm công nghiệp tại hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: Lê Sen

Qua chuyển đổi thực hiện mô hình tôm - lúa đã cho thấy hiệu quả tích cực, mô hình phát triển bền vững, hạn chế rủi ro, thích ứng được với biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập, cải thiện được môi trường canh tác... Từ đó, thu nhập bình quân ổn định và xuất hiện nhiều nhân tố điển hình tiên tiến, nhiều mô hình trong đồng bào dân tộc Khmer cho lợi nhuận hàng năm trên 100 triệu đồng/ha, như hộ ông Danh Thanh ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc), ông Danh Lâu ở ấp Kinh 2 (xã Tân Thuận), ông Danh Sơn Hà ở ấp Bời Lời B (xã Bình Minh)...

Ông Danh Thanh, ngụ ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc) cho biết, trước đây vùng đất này bị nhiễm phèn mặn nên chỉ trồng được cây khóm (dứa), sau đó được Nhà nước đầu tư nạo vét kênh mương nên nuôi được tôm. Thế nhưng con tôm chỉ nuôi được vài năm bắt đầu xảy ra tình trạng tôm bị chết hoặc lâu lớn do các ao nuôi lâu ngày bị lão hóa.

Sau đó, được hướng dẫn của cán bộ khuyến nông và theo định hướng của chính quyền địa phương chuyển sang mô hình nuôi một vụ tôm, trồng một lúa. Với hướng đi này, không chỉ ruộng lúa cho năng suất cao mà trở lại nuôi vụ tôm cũng đạt năng suất cao hơn trước. Nhờ vậy, với hơn 1 ha diện tích canh theo theo mô hình tôm - lúa đã cho gia đình ông Thanh thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.

Ông Thái Thanh Phong, Chủ tịch UBND xã Phong Đông cho biết, xã có tổng dân số 4.728 người, có 1.421 hộ, dân tộc Khmer chiếm hơn 29%. Thời điểm năm 2016, đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn, thu nhập bình quân đạt 22,4 triệu đồng/người/năm và không ổn định; tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc Khmer lạc hậu, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn phát triển chưa đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo còn cao với 309 hộ, chiếm hơn 21 dân số.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu  Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 3

Tập huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác theo mô hình lúa - tôm cho bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Nhưng bằng những bước đi cụ thể, trọng tâm là đã chuyển đổi trên 2.000 ha đất trồng lúa sang mô hình tôm - lúa trong nông dân đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn đã làm thay đổi cuộc sống người dân nơi đây. Đến đầu năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của người dân xã có đông đồng bào dân tộc Khmer Phong Đông tăng lên trên 45 triệu đồng và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,59%.

Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận Huỳnh Tấn Phi cho biết, đến nay, hầu hết các hộ nuôi tôm trên địa bàn huyện Vĩnh Thuận nói chung, hộ đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã chuyển sang mô hình sản xuất luân canh tôm - lúa. Đây là mô hình rất có triển vọng, huyện Vĩnh Thuận cũng đã chọn mô hình này để nhân rộng.

Để mô hình nâng cao hiệu quả, đảm bảo tính bền vững, lâu dài, Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy nhanh triển khai tái cơ cấu ngành nông nghiệp; thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển sản xuất, nhất là trong nuôi trồng thủy sản, gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao thu nhập người dân nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nhân dân, nhất là người dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer nâng cao nhận thức thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, mạnh dạn chuyển đổi giống, cây trồng, vật nuôi và xác định mô hình tôm - lúa là mô hình cho hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Từ đó, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, giảm nghèo bền vững.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất lúa - tôm trong vùng đồng bào Khmer ở vùng sâu  Vĩnh Thuận (Kiên Giang) ảnh 4

Cán bộ huyện Vĩnh Thuận xuống cơ sở, trao đổi về tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với bà con Khmer ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Kiên Giang). Ảnh: An Hiếu

Trong thời gian tới, huyện Vĩnh Thuận tiếp tục tập trung đẩy mạnh nhân rộng mô hình gắn với tăng cường tập huấn, chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cho người sản xuất, đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đồng thời, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các mô hình làm ăn có hiệu quả để trao đổi và học hỏi kinh nghiệm; chỉ đạo liên kết sản xuất gắn kêu gọi các công ty, xí nghiệp cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ cho sản xuất và bao tiêu sản phẩm…/.

Lê Sen, An Hiếu

(Báo ảnh DT&MN/TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm