Nông dân tham quan mô hình máy cuốn rơm vừa được tỉnh hỗ trợ. Ảnh: Hồ Cầu-TTXVN |
Các địa phương chú trọng hướng dẫn, phổ biến cho bà con nông dân các giải pháp sử dụng, xử lý rơm rạ hiệu quả (làm phân bón, nuôi trồng nấm, làm nguồn nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường,..); khuyến khích người dân cắt lửng thân cây lúa hoặc sử dụng máy gặt lúa để cày lật đất góp phần giảm thiểu lượng rơm rạ đốt, đồng thời tăng lượng mùn cho đất; vận động người dân cam kết không xả rơm rạ xuống kênh tưới, tiêu.
Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thừa Thiên - Huế triển khai thực hiện mô hình "Ứng dụng các biện pháp canh tác tổng hợp để xử lý rơm rạ sau thu hoạch". Mô hình được triển khai tại 11 hợp tác xã với tổng diện tích là 106 ha. Trung tâm đã hướng dẫn cho các địa phương sử dụng chế phẩm sinh học CNX - thành phần trichoderma spp để phân hủy gốc rạ.
Cụ thể, sử dụng 250g sản phẩm trộn đều với 1 - 2 kg lân, rải đều ruộng trước hoặc sau khi phay, lồng đất (trên diện tích 1.000m²); hoặc trộn chung với các loại phân bón để bón vào các thời kỳ lúa ở giai đoạn bón lót, bón thúc.
Theo đánh giá của nông dân, trên ruộng có xử lý bằng chế phẩm vi sinh rơm, rạ phân hủy nhanh, nền ruộng xốp, mặt nước trong, ít có hiện tượng váng đỏ, đất mềm, tỷ lệ lúa chết lúc mới gieo (do ngộ độc hữu cơ, rơm rạ chưa phân hủy…) ít hơn, giảm được công dặm tỉa. Lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh khỏe, thân to, lá có màu xanh bền, hạn chế tình trạng lúa bị bệnh bệnh nghẹt rễ vàng lá sinh lý. Đáng chú ý, trên ruộng có xử lý bằng chế phẩm vi sinh mặt nước trong hơn, ít xuất hiện váng đỏ do phèn; đặc biệt bộ rễ lúa phát triển mạnh, bám sâu vào đất là điều kiện thuận lợi để cây hút dinh dưỡng từ bên ngoài và cây lúa hạn chế gãy, ngã khi có gió to.
Kinh nghiệm của các hợp tác xã đã sử dụng chế phẩm này thì cần dùng máy cày để phay, lồng đất 1-2 lượt trước khi rải chế phẩm vi sinh đã tạo các điều kiện cho quá trình phân hủy rơm rạ được nhanh hơn, hiệu quả tốt hơn. Trong vụ đầu thực hiện trên 20 ha tại các xã Vinh Thái, Phú Thanh (huyện Phú Vang), Thủy Châu (thị xã Hương Thủy), Phong Bình huyện (Phong Điền); chi phí sử dụng chế phẩm từ 35.000 - 40.000 đồng/sào (500m2), nhưng cung cấp một nguồn phân hữu cơ cho đất, giảm chi phí sản xuất, tỷ lệ lúa chết lúc mới gieo do ngộ độc hữu cơ, rơm rạ chưa phân hủy ít hơn, cho năng suất cao hơn từ 2- 4 tạ/ha, đã giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường đến mức thấp nhất...
Bên cạnh đó, để hạn chế tình trạng này, ngoài việc sử dụng chế phẩm sinh học CNX để phân hủy gốc rạ, ngành nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên - Huế còn khuyến cáo, vận động người dân làm và sử dụng nấm trichoderma từ rơm rạ và các phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Hợp tác xã nông nghiệp An Lỗ (huyện Phong Điền) tận dụng nguồn rơm từ diện tích 22 ha lúa hữu cơ của địa phương để trồng nấm hữu cơ, xây dựng chuỗi thương hiệu hữu cơ khép kín.
Rơm cuốn dự trữ của hộ gia đình vừa được tỉnh hỗ trợ máy. Ảnh: Hồ Cầu-TTXVN |
Bình quân 1 sào lúa thu được khoảng 10 - 12 cuộn rơm (đường kính 80cm). Với giá 20.000 đồng/cuộn cung cấp cho các cơ sở làm nấm thì đầu ra của rơm rạ khô sau mỗi vụ thu hoạch đạt khá lớn, nếu biết sử dụng hợp lý làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp thì sẽ mang lại hiệu quả cao cho Hợp tác xã nông nghiệp An Lỗ.
Mới đây, anh Hoàng Công Tấn, thôn Cao Xá, xã Phong Hiền, huyện Phong Điền được Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thừa Thiên - Huế hỗ trợ đầu tư máy cuốn rơm theo hình thức vốn đối ứng 50/50%. Máy được lắp đặt vào hệ thống máy kéo Kubota có sẵn của gia đình nên việc đầu tư đối ứng vốn 50% với gia đình rất thuận lợi. Từ vụ thu hoạch lúa năm nay, anh Hoàng Công Tấn sử dụng máy cuốn rơm tại ruộng, công việc mà trước đây gia đình anh phải mất 1 tuần để phơi, thu gom, vận chuyển rơm về nhà sau thu hoạch, nay chỉ cần 1 ngày phơi rơm và 1 buổi để thu gom tất cả rơm về nhà.
Theo anh Tấn, mỗi cuộn rơm hoàn thành trung bình trong thời gian từ 35-45 giây. Công suất thu gom rơm đạt từ 50-80 cuộn/giờ (công suất thực tế lệ thuộc trữ lượng rơm, tính hoạt động liên tục của máy), trung bình mỗi sào thu được 6-10 bó rơm. Máy có thể thu gom 4 ha/ngày, tương ứng với 600 cuộn rơm. Cơ chế vận hành máy khá đơn giản, rơm sẽ được trục bánh răng của máy cuốn vào và được nén chặt bởi trục cuộn nằm phía trong. Sau khi cuộn rơm đạt tiêu chuẩn kích thước và trọng lượng, máy sẽ có hệ thống báo hiệu tự động bằng còi. Tiếp theo, rơm sẽ được buộc lại bởi hệ thống dây quấn, thắt nút cắt tự động và cuộn rơm sẽ được nhả ra ngoài bởi bơm thủy lực đẩy mở cửa.
Tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện tích gieo cấy lúa hàng năm khoảng 28.000 ha (vụ Đông Xuân). Riêng vụ Hè Thu khoảng hơn 20.000 ha, nhưng tiến hành ngay sau thu hoạch lúa vụ Đông Xuân nên thời gian chuẩn bị đất quá ngắn, đất không được làm kỹ, rơm rạ vụ trước chưa kịp phân hủy, trong điều kiện yếm khí sẽ tạo ra các chất độc ức chế sự phát triển, thậm chí làm thối rễ, dẫn đến cây lúa không hút được chất dinh dưỡng, bị suy yếu; những nơi ảnh hưởng nặng làm lúa bị chết, phải gieo sạ lại, gây thiệt hại như trễ thời vụ, tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến vụ sau.
Do đặc thù sản xuất nông nghiệp, thời gian chuyển vụ nhanh, nên muốn nhanh gọn, thuận tiện, phần nhiều bà con nông dân đã chọn cách đốt rơm rạ tại đồng. Tính ra, sau mỗi vụ thu hoạch có khoảng 80% lượng rơm rạ bị đốt hủy gây ô nhiễm môi trường, làm tăng phát thải khí nhà kính, đặc biệt gây mất cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng. Trong khi đó, theo các chuyên gia, việc người dân cho rằng đốt rơm rạ ra tro để làm phân bón ruộng là nhận thức sai lầm bởi khi bị đốt thành tro, các chất hữu cơ có trong rơm rạ do nhiệt độ cao sẽ biến thành chất vô cơ, làm cho đồng ruộng bị khô, chai cứng.
Giải pháp trang bị máy cuộn rơm đang được nhiều địa phương trong tỉnh tham quan, học tập để nhân rộng, góp phần giải quyết tình trạng rơm rạ tồn dư, bị đốt bỏ. Chính quyền địa phương, các HTX nông nghiệp trong tỉnh Thừa Thiên - Huế đang tăng cường tuyên truyền và khuyến cáo người dân sử dụng các mô hình nói trên để hạn chế việc đốt rơm rạ trên cánh đồng, tận dụng được các phế phụ phẩm nông nghiệp tái sản xuất để vừa nâng cao hiệu quả sản xuất lại hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.
Quốc Việt