"Tết năm cùng" là một trong 3 cái Tết quan trọng trong một năm của cộng đồng người Dao ở xứ Thanh cũng như đồng bào Dao quần chẹt nói riêng ở các huyện miền núi Cẩm Thủy, Ngọc Lặc. Đến nay, tục lệ đón “Tết năm cùng” của người Dao quần chẹt ở Thanh Hóa vẫn lưu giữ được rất nhiều nét đặc trưng, thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó của anh em trong dòng họ và tình đoàn kết của cộng đồng.
Có dịp về huyện miền núi Cẩm Thủy những ngày cuối năm chúng tôi đến thăm đồng bào Dao quần chẹt tại thôn Thạch An, xã Cẩm Liên. Trong ngôi nhà mái bằng khang trang, rộng rãi, anh Triệu Hùng Cường (thôn Thạch An, xã Cẩm Liên, huyện Cẩm Thủy) đang tiếp đón họ hàng và khách phương xa.
Anh Triệu Hùng Cường phấn khởi cho biết: “Tết năm cùng” là phong tục rất quan trọng đối với người Dao nên cứ cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch hàng năm, hầu hết các gia đình trong thôn sẽ lần lượt chuẩn bị cỗ, mời thầy cúng về làm lễ và mời anh em, họ hàng đến ăn Tết. Để đón “Tết năm cùng”, các gia đình dân tộc Dao đã tăng gia sản xuất, chuẩn bị trước 2 tháng như nuôi lợn, nuôi gà trống thiến, chuẩn bị gạo nếp, nguyên liệu làm bánh...
Đón “Tết năm cùng”, có 3 món ăn không thể thiếu trong mâm cơm cúng là thịt lợn, gà và bánh dày. Lợn phải mổ nguyên cả con, thủ lợn được dùng để làm lễ cúng, phần còn lại được chế biến thành các món ăn. Để mổ lợn, từ sáng sớm, những thanh niên khoẻ mạnh, nhiệt tình trong dòng họ đều được trưởng họ huy động đến để đi bắt lợn, mổ lợn và tham gia vào việc giã bánh dày. Bánh dày được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín, sau đó cho vào cối đá giã nhuyễn, trộn cùng với vừng rang rồi nặn thành từng chiếc bánh tròn vừa ăn.
Trong “Tết Năm cùng” của đồng bào Dao quần chẹt xứ Thanh thì nghi lễ cúng là nghi lễ quan trọng nhất, thường do 3 thầy cúng thông thạo tiếng Dao cổ hành lễ. Trong tín ngưỡng thờ cúng, đồng bào Dao chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Đạo giáo. Ba mâm lễ lần lượt được bày biện thành kính để cúng hương hỏa tổ tiên (những bậc cao niên trong gia đình), cúng Bàn vương (thủy tổ của người Dao) và cúng quần chúng gia tiên (những người nhỏ hơn trong gia đình như vợ, con...). Các thầy cúng sẽ thay mặt gia chủ kính cáo với tổ tiên, Bàn vương, gia tiên những những công việc đã làm được và những công việc còn chưa làm được trong năm, đồng thời cầu mong những điều may mắn, thuận lợi sẽ đến trong năm mới.
Sau nghi lễ cúng, lễ vật được hạ xuống để tất cả mọi người cùng ăn Tết. Thức ăn được đặt trong mâm hoặc rổ hình tròn, bên trên lót lá chuối tươi. Thầy cúng và các vị chức sắc trong làng, các con trai trong họ ngồi mâm riêng trong nhà lớn. Còn thanh niên, phụ nữ trong gia đình thì ăn ở ngoài sân hoặc nhà dưới. Trong bữa ăn, người Dao thường mời nhau chén rượu, chúc nhau những điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới. Người Dao quần chẹt quan niệm, gia đình nào có nhiều khách thăm nhà, ăn “Tết năm cùng” sẽ càng may mắn trong năm mới, vì thế trong những ngày “Tết năm cùng”, cộng đồng người Dao luôn sống trong không khí tràn đầy hân hoan, phấn khởi...
Bà Phùng Thị Thúy (thôn Thạch An, xã Cẩm Liên, huyện Cẩm Thủy) cho biết: "Chúng tôi rất háo hức mong đến ngày Tết của dân tộc mình, tục lệ đã ăn sâu vào mỗi thế hệ nơi đây nên cứ đến ngày này ai cũng thấy phấn khởi nô nức để về dự tết với gia đình. Năm nay do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên chúng tôi hạn chế tập trung đông người, ví dụ mọi năm sẽ tập trung ăn uống 20-30 mâm ở một nhà, còn năm nay sẽ chia ra ăn ở 2-3 nhà bên cạnh đó...
Thôn Thạch An, xã Cẩm Liên có 93 hộ dân tộc Dao với 310 nhân khẩu. Vào dịp “Tết năm cùng”, các nhà trong thôn sẽ lần lượt tổ chức ăn uống và mời người thân, họ hàng đến chung vui. “Tết năm cùng” cũng là dịp để anh em, người thân làm ăn xa về tụ họp, lễ cúng tổ tiên, báo cáo một năm làm ăn thuận lợi và cầu mong một năm mới làm ăn thuận lợi, gia đình khỏe mạnh. Một mùa Xuân mới, một cái Tết ấm cúng nữa đang về với người Dao quần chẹt ở xã Cẩm Liên nói riêng và đồng bào dân tộc Dao nói chung trên mảnh đất xứ Thanh.
Ông Nguyễn Văn Dũng, Chủ tịch UBND xã Cẩm Liên cho hay: Xã Cẩm Liên có 5 thôn, trong đó thôn Thạch An có 84 hộ dân tộc Dao sinh sống. Cứ đến cuối năm, đồng bào dân tộc Dao tổ chức ăn “Tết năm cùng” để tổng kết năm cũ và cầu chúc mọi điều may mắn sẽ đến trong năm mới. Nghi lễ thờ cúng ngày “Tết năm cùng” của đồng bào dân tộc Dao quần chẹt không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn thể hiện sự thành kính của con cháu với tổ tiên vì thế công tác chuẩn bị và bày trí cho nghi lễ này được đồng bào rất chú trọng. Sau “Tết năm cùng”, bà con người Dao lại tất bật dọn dẹp nhà cửa để đón Tết Nguyên đán đang đến rất gần.
Trên địa bàn huyện Cẩm Thủy hiện có gần 4.000 đồng bào dân tộc Dao quần chẹt sinh sống tại các xã Cẩm Bình, Cẩm Liên, Cẩm Châu và thị trấn Phong Sơn. Mỗi năm đồng bào dân tộc Dao đón 3 cái tết là rằm tháng Bảy, Tết năm cùng và Tết thanh minh. Thời gian tới, huyện Cẩm Thủy tiếp tục có những chính sách khuyến khích đồng bào dân tộc Dao gìn giữ, bảo tồn và phát huy các nghi lễ, các nét đẹp văn hóa độc đáo này.
Hoa Mai
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn