Về huyện vùng sâu Vĩnh Thuận (Kiên Giang), trong những ngày đồng bào dân tộc Khmer chuẩn bị đón Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây (diễn ra từ ngày 13 - 16/4/2021, nhằm các ngày mùng 2, 3, 4 và 5/3 âm lịch), dễ nhận ra những đổi thay nhanh chóng với những con đường bê tông sạch đẹp, những ngôi nhà mới khang trang. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Những thành tựu đạt được trong năm 2020 đã tạo động lực, niềm tin để Đảng bộ và nhân dân trong huyện triển khai thực hiện thành công nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2021.
Huyện Vĩnh Thuận có 81.875 người dân, trong đó đồng bào Khmer có 5.826 người, chiếm hơn 7%, sống chủ yếu ở các xã Vĩnh Phong, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Bình Nam, Phong Đông.
Những năm qua, cùng với nguồn vốn Trung ương, tỉnh, Đảng bộ huyện Vĩnh Thuận cũng đã huy động từ nhiều nguồn vốn để tập trung chăm lo cho người nghèo, nhất là đồng bào dân tộc Khmer.
Chị Thị Điệp, ngụ ấp Ruộng Sạ 1, xã Vĩnh Phong, vui vẻ cho biết, gần đến Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, gia đình đã chuẩn bị sẵn mọi thứ. Với hơn 3.000 m2 đất vườn, gia đình chị trồng đủ loại rau màu, cách mấy ngày cho thu hoạch hơn một triệu đồng. Với số tiền này hai vợ chồng chị tiết kiệm, làm nhà mới.
Theo ông Đặng Văn Nguyện, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Vĩnh Phong, trước đây gia đình chị Thị Điệp thuộc diện hộ nghèo ở địa phương, nhưng nhờ vốn vay chính sách xã hội với số tiền 40 triệu đồng, gia đình chị đã cải tạo lại đất vườn tạp sau nhà, nuôi thêm lợn, gà vịt…
Nhờ chí thú làm ăn, gia đình chị Điệp đã thoát nghèo. Từng là hộ nghèo nên gia đình chị biết cảm thông những hộ nghèo khác, giúp giống, vốn cho nhiều hộ dân tộc Khmer trên địa bàn cùng thoát nghèo.
Ông Danh Dung, ngụ ấp Cái Nhum, xã Phong Đông, cho biết đất ruộng ở vùng quê này ngày trước không làm được lúa do bị nhiễm phèn, mặn, đa số rơi vào diện nghèo. Những năm qua, được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư bắc cầu, làm đường, kéo điện lưới quốc gia về sinh hoạt, nhất là đất được quy hoạch, chuyển đổi sang nuôi tôm, cua, đời sống của người dân nơi đây dần thay đổi.
Với 2 ha đất nuôi tôm, cua, mỗi năm gia đình ông Dung thu về vài trăm triệu đồng. Gần hai năm nay, ông Dung còn học hỏi để nuôi chồn hương, cho thu nhập vài chục triệu đồng/năm. Ông Danh Dung cho biết, với quy hoạch chuyển đổi mô hình sản xuất đúng đắn, đến nay hầu hết bà con ở Cái Nhum đều xóa được nghèo khó.
Ông Danh Lượng, ngụ ấp Vĩnh Tây 1, xã Vĩnh Phong, vừa trúng đậm vụ tôm, cua, vui vẻ cho biết: "Gia đình tôi đã chuẩn bị quần áo mới, trà, bánh... để đón năm mới. Nhờ mấy năm nay được Nhà nước đầu tư nạo vét kênh mương xả phèn, tháo úng nên không chỉ riêng gia đình tôi mà nhiều hộ trên địa bàn xã trúng mùa, mua sắm thêm dụng cụ phục vụ sản xuất. Gia đình tôi có gần 5 ha đất, năm nay tổng thu nhập từ tôm, cua khoảng 700 triệu đồng, nên chuẩn bị đón tết lớn hơn mọi năm".
Ông Danh Hùng, hàng xóm của ông Lượng, cho biết nếu không có chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất, nhất là các con rạch dẫn nước từ sông lớn Chắc Băng để bà con nuôi tôm, cua thì không biết đến bao giờ vùng đất này mới chuyển mình như hôm nay.
Cũng nhờ vậy, hơn 5 năm qua, gia đình ông Danh Hùng luôn trúng mùa vụ tôm, trả được nợ, cất nhà mới và mua sắm nhiều vật dụng sinh hoạt có giá trị trong gia đình. Ông Danh Hùng cho biết, chưa bao giờ chuẩn bị đón tết cổ truyền của đồng bào dân tộc vui đến vậy.
Vừa nhận món quà của lãnh đạo địa phương tặng nhân dịp năm mới, ông Danh Hai, ngụ ấp Cái Nhum, xã Phong Đông, xúc động cho biết: "Do ruộng đất ít, lại đông con nên cuộc sống gia đình còn nhiều khó khăn, nhưng gia đình tôi rất vui là được Đảng, Nhà nước quan tâm chăm lo, nhất là vào những ngày tết như thế này đã tiếp thêm động lực để chúng tôi phấn đấu".
Không chỉ gia đình ông Danh Hai được quan tâm, còn nhiều người nghèo cũng được lãnh đạo tỉnh, huyện tổ chức đến thăm, tặng quà tết để đón năm mới. Số tiền, quà tuy không nhiều, nhưng người dân cảm nhận được sự ấm áp, chia sẻ của Đảng bộ, chính quyền biết quan tâm, chăm lo, giúp họ vượt qua những khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Theo ông Danh Đấu, Bí thư Chi bộ, Trưởng ấp Vĩnh Tây 1 (xã Vĩnh Phong), đến nay, toàn ấp có 378 hộ, trong đó có 73 hộ đồng bào dân tộc Khmer. Điều đáng mừng, toàn ấp chỉ còn 8 hộ nghèo, riêng hộ đồng bào Khmer đã xóa nghèo, chỉ còn 6 hộ cận nghèo và trên 50% hộ Khmer có mức sống từ khá trở trên.
Đại đức Danh Dung, trụ trì chùa Đồng Chanh, xã Vĩnh Bình Bắc, cho biết, Tết năm nay do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhà chùa tổ chức lễ đơn giản chỉ cầu an, cầu siêu. Chùa dán thông báo trước cổng các quy định về phòng, chống dịch, bố trí các bàn để nước rửa tay khử khuẩn, phát khẩu trang và vận động phật tử nên thực hiện nghi lễ và đón Tết tại nhà.
Theo ông Lê Văn Gìn, Phó Trưởng ban Tuyên giáo huyện Vĩnh Thuận, chuẩn bị đón Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây năm nay do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo đã được đồng bào, các chùa tạm thời hoãn lại, hoặc tổ chức trong khuôn khổ đảm bảo nghi lễ truyền thống nhưng đúng quy định của cơ quan chức năng về phòng, chống dịch.
Bài và ảnh: Lê Sen
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn