Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày dự thảo Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trình bày Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Phiên họp được phát thanh và truyền hình trực tiếp để cử tri cả nước theo dõi.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày dự thảo Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội. Ảnh: Nhan Sáng - TTXVN |
* Quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc
Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày nêu rõ: 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, từng vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các ngành, các cấp và các cơ quan, tổ chức hữu quan, triển khai khối lượng lớn công việc về lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát tối cao; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Lập hiến, lập pháp là nhiệm vụ trọng tâm, nặng nề của Quốc hội khóa XIII. Quốc hội đã tập trung, nỗ lực thực hiện tốt chức năng này và đạt được kết quả nổi bật, hết sức quan trọng, kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quốc hội khóa XIII đã hoàn thành trọng trách xây dựng và thông qua bản Hiến pháp 2013, thể chế hóa đường lối của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Quốc hội khóa XIII đã ban hành một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật lớn nhất từ trước đến nay với chất lượng ngày càng nâng cao; tính đến hết kỳ họp thứ 10 (tháng 11/2015), Quốc hội đã ban hành 100 luật, bộ luật; dự kiến kỳ họp thứ 11, Quốc hội tiếp tục xem xét, thông qua 7 dự án luật (Nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX thông qua được 53 luật, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI thông qua được 84 luật, bộ luật; nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII thông qua được 67 luật, bộ luật).
Về thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ yếu tố trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn trong quyết sách của Quốc hội nhiệm kỳ này được thể hiện rõ nét. Vì vậy, việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế từng bước vượt qua khó khăn, tiếp tục tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng khẳng định chất vấn là hình thức giám sát hiệu quả nhất trong hoạt động giám sát của Quốc hội, luôn thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhiều tầng lớp Nhân dân, luôn thúc đẩy đại biểu Quốc hội lắng nghe, trăn trở với các vấn đề bức xúc, nổi cộm của đời sống xã hội để chuẩn bị các chất vấn có chất lượng; đồng thời cũng giúp những người bị chất vấn sẵn sàng chia sẻ, nhìn nhận, đánh giá các vấn đề đặt ra một cách chính xác, khách quan; từ đó tạo ra sự chuyển biến tích cực, sự thống nhất chung trong nhận thức và hành động của cả bộ máy nhà nước.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nêu một số bài học kinh nghiệm rút ra qua hoạt động của Quốc hội khóa XIII. Một là, kế thừa, phát huy các thành tựu, bài học kinh nghiệm của 70 năm Quốc hội Việt Nam, Quốc hội khóa XIII đã nêu cao tinh thần đoàn kết, đổi mới mạnh mẽ, dân chủ thực sự, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động.
Với Quốc hội, đoàn kết, đổi mới, trí tuệ và trách nhiệm là yêu cầu thường xuyên, liên tục, là động lực quan trọng tạo nên sức mạnh, sự năng động, sáng tạo để đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra. Hai là, quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân, phục vụ dân là yêu cầu hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội.
Gắn bó chặt chẽ, mật thiết với cử tri và nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, góp phần tạo ra sức mạnh cho Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội bám sát sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội, có những quyết sách đúng đắn, kịp thời, sát thực tiễn, hợp lòng dân...
Ba là, chất lượng đại biểu Quốc hội có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội đã thể hiện trách nhiệm, bản lĩnh, trí tuệ; thảo luận, tranh luận với tinh thần xây dựng, tâm huyết; tích cực tham gia hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội chuyên trách ngày càng khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội...
Bốn là, đề cao vai trò, trách nhiệm, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội có ý nghĩa quyết định đến việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, giúp cho hoạt động của Quốc hội ngày càng trọng tâm, trọng điểm hơn. Năm là, tăng cường phối hợp, hợp tác có hiệu quả với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan, tổ chức hữu quan là yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Phương hướng, nhiệm vụ của Quốc hội trong thời gian tới, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động lập pháp, nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và thống nhất của các đạo luật; nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các vấn đề về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.
Nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội, tập trung giám sát những vấn đề lớn, bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội. Tiếp tục tăng cường đại biểu Quốc hội chuyên trách (lên khoảng 40% tổng số đại biểu Quốc hội) để làm nòng cốt trong việc xây dựng luật, hoạt động giám sát và các hoạt động khác. Coi trọng chất lượng đại biểu để nâng chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, giảm số lượng đại biểu công tác tại các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước và tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội là các nhà khoa học, đại biểu có trình độ, năng lực và điều kiện hoạt động Quốc hội...
* Phát huy dân chủ, đoàn kết
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trình bày Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016. Ảnh: Nhan Sáng – TTXVN |
Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nêu rõ nhiệm kỳ 2011-2016, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, kinh tế- xã hội trong nước gặp nhiều khó khăn, Chủ tịch nước trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và là đại biểu Quốc hội khóa XIII, đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trị- xã hội, các ban, bộ, ngành, địa phương, nhân dân và cử tri cả nước thực hiện đầy đủ và có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, các nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư phân công, góp phần tích cực cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện có kết quả nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII.
Đề xuất nhiệm vụ, phương hướng trong thời gian tới, Chủ tịch nước nêu rõ: Cần phối hợp chặt chẽ với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tích cực tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thể chế hóa quy định của Hiến pháp và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; kiến nghị hoàn thiện một số văn bản luật liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016- 2020 trong đó tập trung vào hoàn thiện chính sách, pháp luật, kiện toàn tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ tự pháp, bổ trợ tư pháp; chỉ đạo tổng kết toàn diện việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Tăng cường quan hệ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; tăng cường tiếp xúc cử tri, gặp gỡ, thăm hỏi, lắng nghe và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; góp phần phát huy dân chủ, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Thời gian tới, chỉ đạo Văn phòng Chủ tịch nước kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường quan hệ phối hợp công tác, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, đáp ứng tốt yêu cầu tham mưu giúp việc Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
* Bảo đảm phát triển bền vững
Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày trước Quốc hội đã đánh giá khái quát những kết quả đạt được trên các mặt: thống nhất quản lý phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng và thực thi pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, Nhà nước, xã hội; xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước; tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết khiếu nại tố cáo; bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; quản lý công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội và Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; chấp hành sự giám sát của Quốc hội và báo cáo trước nhân dân.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 – 2016 của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ. Ảnh: Nhan Sáng - TTXVN |
Về thống nhất quản lý phát triển kinh tế-xã hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành tập trung kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm phát triển bền vững; điều hành chủ động, linh hoạt và phối hợp giữa các chính sách để kiểm soát tốt lạm phát, cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn và đạt mức tăng trưởng khá cao trong 5 năm 2011-2015. Tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/năm, năm 2015 đạt 6,68%, cao nhất kể từ năm 2008 (năm 2008 là 5,66%; năm 2009 là 5,4%; năm 2010 là 6,42%; năm 2011 là 6,24%; năm 2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%; năm 2014 là 5,98%; năm 2015 là 6,68%).
Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh và đã đạt được kết quả bước đầu. Chính phủ tập trung thực hiện đạt kết quả các đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Về xây dựng và thực thi pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, Nhà nước, xã hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật; xây dựng và triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ đạo điều hành; tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thi hành và xử lý các văn bản, quy định trái pháp luật.
Nhiệm kỳ qua, Chính phủ đã dành nhiều thời gian cho công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, bảo đảm hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, ổn định hơn. Công tác xây dựng pháp luật đã có bước tiến mới, chất lượng ngày càng được nâng cao. Hệ thống pháp luật cơ bản được hoàn thiện, bám sát Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển và bảo vệ đất nước.
Về xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã trình và được Quốc hội phê chuẩn cơ cấu tổ chức với 22 bộ, cơ quan ngang bộ; không thành lập mới và đã giảm 01 tổng cục so với đầu nhiệm kỳ; ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và đặc thù của địa phương; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành.
Báo cáo đã nêu lên những mặt còn hạn chế, yếu kém về lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế-xã hội. Do năng lực dự báo còn hạn chế nên việc xây dựng mục tiêu, một số chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội còn chưa phù hợp; một số cơ chế, chính sách còn thiếu tầm nhìn dài hạn, tính khả thi chưa cao và phản ứng chính sách trong một số trường hợp chưa thật kịp thời. Sự phối hợp chính sách và chỉ đạo điều hành trong thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế chưa thật đồng bộ, có mặt hiệu quả chưa cao.
Việc bảo đảm cân đối thu chi ngân sách nhà nước có mặt còn hạn chế, chậm khắc phục tình trạng thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá và những bất hợp lý trong cơ cấu chi ngân sách, quản lý một số khoản chi chưa chặt chẽ, vẫn còn nhiều lãng phí. Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, quản lý sử dụng vốn vay ở một số dự án còn kém hiệu quả, khắc phục còn chậm.
Thiếu nguồn lực và cơ chế chính sách hiệu quả để xử lý nhanh hơn nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng. Việc phát triển thị trường trong nước, khai thác thị trường ngoài nước, nhất là những thị trường đã có Hiệp định thương mại tự do, đấu tranh với những rào cản thương mại quốc tế hiệu quả chưa cao. Công tác quản lý thị trường, giá cả, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả còn nhiều hạn chế...
Qua nhiệm kỳ 2011-2016, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu lên những bài học kinh nghiệm, đó là phải quán triệt, thể chế hóa kịp thời, phù hợp chủ trương đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; sáng tạo trong tư duy phát triển, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cao nhất. Tập trung sức hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển nhanh và bền vững.
Phải bám sát chức năng nhiệm vụ, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy vai trò của tập thể Chính phủ, đề cao trách nhiệm của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ. Đặc biệt chú trọng đánh giá đúng tình hình, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm trọng điểm, gắn trước mắt với cơ bản lâu dài và ứng phó kịp thời với diễn biến mới của tình hình.
Bám sát thực tiễn, tháo gỡ khó khăn vướng mắc và nhân rộng mô hình tốt, cách làm hay; đề cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu; lấy kết quả thực hiện để đánh giá tính đúng đắn của chính sách và năng lực quản lý điều hành. Trong điều kiện khó khăn càng phải tăng cường bảo đảm an sinh xã hội và chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của người dân; chú trọng phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn; thực hiện nhất quán, thiết thực phát triển văn hóa và tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển; tăng cường quyền làm chủ của người dân, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Cùng với phát triển kinh tế phải tăng cường quốc phòng an ninh, bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ; phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, thu hút mạnh và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian còn lại của phiên làm việc buổi sáng, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế.