Tỉnh Trà Vinh có tổng dân số hơn 1 triệu người, trong đó đồng bào Khmer chiếm gần 32%. Đồng bào Khmer Trà Vinh chủ yếu sống ở vùng nông thôn với nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, cùng với đồng bào Kinh, Hoa, đồng bào Khmer Trà Vinh rất tích cực xây dựng nông thôn mới, chung tay cùng chính quyền cải thiện diện mạo phum sóc, phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập nông hộ.
Phum sóc ở Trà Vinh hiện nay không còn cảnh mưa sình, gió bụi. Hệ thống giao thông nông thôn các xã được thông thương, đường nối liền đường. Cảnh quan môi trường sáng – xanh – sạch – đẹp, nhiều ngôi nhà mới khang trang. Diện mạo phum sóc không ngừng được “thay da đổi thịt”.
Ấp Trà Bôn, xã Châu Điền, huyện Cầu Kè có 409 hộ dân, trong đó hộ Khmer chiếm 80% hộ. Từ khi những tuyến đường trong ấp được bê-tông hóa, việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân rất thuận lợi. Nhờ vậy, hàng nông sản địa phương được thương lái thu mua giá cao hơn trước, nông dân rất phấn khởi.
Ông Sơn Đường, Bí thư Chi bộ ấp Trà Bôn chia sẻ, trước đó, khi chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động người dân xây dựng nông thôn mới, đồng bào Khmer địa phương đều hưởng ứng, chung sức đồng lòng. Nhiều hộ tự nguyện hiến đất làm đường, mỗi gia đình tự xây dựng nếp sống văn hóa. Tính từ năm 2015 đến nay, người dân trong ấp đã hiến trên 3,5 ha đất để xây dựng 5 tuyến đường nông thôn; tham gia nạo vét, nâng cấp 12 tuyến kênh nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; cùng chính quyền vận động các mạnh thường quân hỗ trợ xây dựng 14 cây cầu bê-tông… Nhờ vậy, bộ mặt ấp Trà Bôn được cải thiện đáng kể.
Trà Cú là huyện nghèo vùng sâu của tỉnh Trà Vinh, có trên 62% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Chính vì vậy, nhiều năm qua, các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm xây dựng hạ tầng kỹ thuật để giúp dân nâng cao mức sống. Trong công tác xây dựng nông thôn mới, địa phương chú trọng giải pháp giảm nghèo, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt. Thời gian qua, huyện Trà Cú rất tích cực đa dạng hóa sinh kế, hỗ trợ hộ nghèo cải thiện thu nhập. Nhiều mô hình giảm nghèo của huyện đã chứng minh hiệu quả, giúp nhiều hộ thoát nghèo, vươn lên ổn định cuộc sống.
Điển hình như mô hình chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả để trồng lúa- khoai môn sáp-ngô của Tổ hợp tác sản xuất ấp Giồng Lớn A, xã Đại An, huyện Trà Cú đã giúp nhiều hộ Khmer cải thiện thu nhập, thoát nghèo bền vững. Cây khoai môn sáp sau hơn 4 tháng trồng cho thu hoạch, với năng suất khoảng 20 tấn/ha, nông dân đạt lợi nhuận từ 150-200 triệu đồng.Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả, đến nay ấp Giồng Lớn A chỉ còn 8 hộ nghèo, giảm gần 200 hộ nghèo so với năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của ấp hiện đạt 48 triệu đồng/người/năm, tăng 30 triệu đồng/người/năm so với 5 năm trước. Thấy được hiệu quả kinh tế cao, nhiều nông dân trong ấp chuyển đổi sản xuất và mở rộng diện tích trồng khoai môn sáp lên hơn 40 ha.
Cùng với việc hỗ trợ người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, huyện Trà Cú còn hỗ trợ các làng nghề trên địa bàn phát triển sản xuất để tạo việc làm cho người dân. Huyện có 3 làng nghề gồm: Làng nghề sản xuất các sản phẩm từ tre, trúc, tầm vông xã Hàm Giang; Làng nghề đan lát xã Đại An và Làng nghề dệt chiếu Cà Hom, xã Hàm Tân. Các làng nghề này đã giải quyết việc làm cho khoảng 3.000 lao động nông thôn, với mức thu nhập bình quân từ 2,5-6 triệu đồng/người/tháng.
Hiện nay, cơ sở sản xuất Trì Cảnh của Làng nghề sản xuất các sản phẩm từ tre, trúc, tầm vông có sản phẩm bộ salon tre được Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận đạt OCOP 4 sao, ngành chức năng đang hỗ trợ cơ sở nâng hạng lên 5 sao. Các sản phẩm nông thôn thu nhỏ của hộ kinh doanh Diệp Thị Trang ở Làng nghề tiểu thủ công nghiệp Đại An đạt chứng nhận OCOP 3 sao…
Bí thư Huyện ủy Trà Cú Dương Văn Triệu cho biết, nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp giảm nghèo, đời sống của người dân địa phương được nâng lên đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo được kéo giảm từng năm. Năm 2020, huyện Trà Cú xóa được hơn 700 hộ nghèo. Năm 2021, địa phương đặt mục tiêu xóa 863 hộ nghèo.
Ông Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trà Vinh cho biết, hơn 10 năm Trà Vinh thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tỉnh có 72/85 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, trong đó 69 xã đã được Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 11 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Toàn tỉnh có 5/9 đơn vị được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận đạt chuẩn và hoàn thành xây dựng nông thôn mới. Thành quả này, không chỉ có sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền các cấp, các lực lượng xã hội mà có sự chung tay, góp sức lớn của nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát huy kết quả đạt được, tỉnh Trà Vinh đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó khoảng 50% xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 8 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới, 1 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Để thực hiện đạt mục tiêu, tỉnh giao nhiệm vụ cho ngành Nông nghiệp Trà Vinh phối hợp với các ngành liên quan, các địa phương tích cực hỗ trợ nông dân, nhất là các hộ Khmer chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để tăng thu nhập hơn nữa. Tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, giá trị sản xuất bình quân đất trồng trọt đạt 145 triệu đồng/ha và đất mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 380 triệu đồng/ha, tăng 15 - 20 triệu đồng/ha so với giá trị đất sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Trong kế hoạch nâng cao giá trị sản xuất trên cùng đơn vị sản xuất đất nông nghiệp, tỉnh sẽ ưu tiên nguồn lực từ các chính sách của Trung ương dành hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số; nguồn ngân sách tỉnh và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư hạ tầng kỹ thuật; xây dựng những mô hình sản xuất ứng dụng khoa học kỹ thuật mới cho thu nhập cao để chuyển giao cho đồng bào Khmer; góp phần quan trọng hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới./.
Thanh Hòa
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn