![]() |
Giao duyên |
Khi tiết trời đã sang xuân, các mẹ, các chị rủ nhau lên nương gieo hạt. Hạt bông được trồng đầu tháng 2 âm lịch và phải đến khoảng tháng 7, tháng 8 mới được thu hoạch. Khi ấy, những vạt nương trắng xóa hoa bông, nằm lưng chừng sườn núi, xen lẫn màu xám của đá và màu xanh của núi rừng tạo nên một bức tranh phong cảnh thiên nhiên đặc sắc. Sau khi thu hoạch bông, bà con sẽ đem phơi nắng cho thật khô rồi mới quay tơ, se sợi. Dưới đôi bàn tay kỳ diệu của người phụ nữ đã biến những sợi bông trắng, mảnh thành những tấm vải vuông vức. Vải sau khi dệt xong sẽ được ngâm, nhuộm với lá cây chàm. Vải chàm của bà con dân tộc không mượt mà, nhưng lại phục vụ hữu hiệu trong cuộc sống và lao động sản xuất. Mùa đông, người lao động được sắc chàm che chở. Khi những cơn gió mùa thổi xuyên qua kẽ lá, cái rét sương núi tê buốt, lạnh cóng đôi tay, một chiếc áo khoác bông làm từ vải chàm sẽ giúp bớt giá lạnh. Mùa hè, khi mọi người rủ nhau lên nương, lên rẫy tra ngô, gieo hạt, cái nắng, cái gió làm gương mặt ai cũng bỏng rát, chiếc áo chàm lại như tấm khăn mát lạnh, thấm từng giọt mồ hôi chát mặn, xua đi cái nóng nực, oi bức ngày hè.
Mỗi nhóm người Nùng như: Nùng Giang, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi... có điểm trang trí trên trang phục khác nhau, nhưng đặc điểm chung là các trang phục đều khá đơn giản, ít thêu thùa trang trí.
Tổng thể, trang phục của dân tộc Nùng hoa văn không cầu kỳ mà thiên về tạo dáng. Màu sắc trên trang phục dân tộc Nùng cũng khá đa dạng, từ màu xanh nhạt đến xanh thẫm, tím than, xanh đen, nhưng phổ biến nhất vẫn là màu chàm.
![]() |
Nét duyên phụ nữ dân tộc Nùng |
Bước vào xuân, màu chàm như được tỏa hương khoe sắc. Họ xuống chợ, đến lễ hội xuân, từ già đến trẻ đều khoác trên mình màu áo bình dị. Những em bé cũng được các mẹ, các bà chuẩn bị những bộ chàm nhỏ xinh. Trong ngày cưới, cô dâu trong trang phục truyền thống của dân tộc.
![]() |
Mầm chàm ngày xuân |