Phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam

Phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Điện gió: đã có nhưng khó hoạt động
 
Thi công nhà máy điện gió ở Bạc Liêu. Ảnh: Tia Sáng
Thi công nhà máy điện gió ở Bạc Liêu. Ảnh: Tia Sáng
Phóng viên: Theo ông, tiềm năng điện gió của Việt Nam như thế nào, nó có thể chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng sản lượng điện quốc gia?
Ông Tobias Cossen: Tiềm năng điện gió của Việt Nam rất lớn do Việt Nam có đường bờ biển dài. Theo nghiên cứu bản đồ gió của Ngân hàng Thế giới (WB) thì công suất lắp đặt của điện gió ở Việt Nam vào khoảng 501 GW (trong khi công suất của nhà máy Thủy điện Hòa Bình chỉ đạt khoảng hơn 1 GW). Tỷ trọng của điện gió so với tổng sản lượng điện quốc gia chỉ phụ thuộc vào việc các bạn xác định mục tiêu phát triển điện gió là bao nhiêu. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác tiềm năng, cần phải tính toán đến cả yếu tố về thị trường nữa. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, họ có rất ít tài nguyên cho năng lượng, giá điện rất cao, nhưng các dự án điện vẫn hấp dẫn các nhà đầu tư, bởi Chính phủ Nhật có cơ chế đảm bảo rằng, các nhà đầu tư sẽ không bao giờ phá sản khi đầu tư vào lĩnh vực này.Phóng viên: Theo Quy hoạch điện VII, chính phủ có đưa ra mục tiêu đến năm 2020, công suất điện gió của Việt Nam là 800MW. Liệu điều này có khả thi?Ông Tobias Cossen: Chúng tôi đã tham gia tư vấn cho rất nhiều quốc gia và các vùng lãnh thổ, như Lào hay Campuchia. Họ nói rằng, họ muốn phát triển năng lượng tái tạo, nhưng tất cả chỉ thế thôi, họ không đi sâu vào chi tiết. Còn Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu vào năm 2020, công suất lắp đặt điện gió là 800 MW. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng đó là một mục tiêu tham vọng bởi đến nay mới đạt 160 MW.Phóng viên: Quy hoạch điện VII đối với năng lượng tái tạo của Việt Nam như thế nào, thưa ông?Ông Tobias Cossen: Để tạo ra một thị trường thúc đẩy năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió, là một vấn đề rất phức tạp. Đức phải mất 20 năm để đạt được như ngày hôm nay. Nếu tôi là Chính phủ Việt Nam, tôi sẽ dành thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng những gì mình đang có, xác định mình muốn gì, muốn theo mô hình của nước nào và làm thế nào để áp dụng mô hình này vào Việt Nam. Nhiều người nghĩ rằng họ có thể sao chép mô hình của Thái Lan hoặc Philippines và áp vào Việt Nam. Nó sẽ không hiệu quả, đặc biệt là bối cảnh chính trị của Việt Nam hiện giờ rất khác họ. Hiện nay GIZ đang tư vấn cho Tổng cục Năng lượng/Bộ Công thương những kịch bản mà Việt Nam có thể theo đuổi, đồng thời tìm phương án tốt nhất để triển khai tại Việt Nam.Phóng viên: Ông có biết cơ sở nào để Chính phủ Việt Nam đưa ra con số 800MW không?Ông Tobias Cossen: Con số đó được đưa ra bởi các cơ quan chức năng của Việt Nam, đó không phải là nhiệm vụ của chúng tôi. Chúng tôi có thể làm điều đó, nhưng nhiệm vụ của dự án này (dự án Mở rộng Quy mô Điện gió tại Việt Nam - Up-scaling wind energy project) chỉ là hỗ trợ Chính phủ Việt Nam mở rộng quy mô của năng lượng gió. Dự án đầu tiên về điện gió của chúng tôi bắt đầu vào năm 2009 và kết thúc năm 2011. Năm 2011, giá bán điện gió 2 (feed in tariff) được ban hành, với mỗi kWh điện gió kết nối với lưới điện quốc gia, người bán sẽ nhận được một khoản tiền là 7,8 US cent/kWh. Chúng tôi gợi ý một con số cao hơn để khuyến khích khối tư nhân tham gia đầu tư vào điện gió. Vì sao ư? Bởi vì có lẽ ai cũng đồng ý với quan điểm rằng, sẽ thật khó khăn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi cứ mãi độc quyền trên thị trường và làm tất cả mọi thứ như hiện nay. Họ đã quá tải rồi và trách nhiệm cũng nên được san sẻ. Một vấn đề khác nữa là quy trình, giấy phép cần thiết để triển khai một dự án điện gió. Các dự án xây dựng nhà máy điện gió với công suất lắp đặt tối đa là 30 MW sẽ cần phải xin phép Ủy ban nhân dân tỉnh. Nếu với công suất lớn hơn, dự án phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, đã có khung quy định chung về phát triển đầu tư dự án, tuy nhiên, mỗi tỉnh lại áp dụng một cách khác nhau nên quy trình thủ tục mất rất nhiều thời gian và có lúc không được rõ ràng và minh bạch. Mới đây, với sự cộng tác chặt chẽ của Tổng cục Năng lượng và các Sở Công thương cũng như các bên liên quan, cuốn sổ tay Hướng dẫn Phát triển và Đầu tư Điện gió tại Việt Nam đã được xây dựng và ban hành. Với nỗ lực này, chúng tôi hy vọng giúp các nhà đầu tư và phát triển dự án có thông tin đầy đủ và rõ ràng hơn.Phóng viên: Như ông vừa nói thì giá bán điện gió là rất thấp, vậy tại sao trên thực tế vẫn có những nhà đầu tư chấp nhận đầu tư vào lĩnh vực này?Ông Tobias Cossen: Nếu bạn nói về những người đầu tư điện gió ở Việt Nam, bạn nên nhớ hiện nay chỉ có bốn nhà máy điện gió đã hoạt động ở Việt Nam chứ không phải là hàng trăm nhé: REVN, nhà máy điện gió đầu tiên ở Việt Nam; Công Lý, nhà máy lớn ở phía Nam và Phú Lạc, do Ngân hàng Tái thiết Đức đầu tư và một dự án rất nhỏ không nối lưới trên đảo Phú Quý. Bốn dự án đang được hưởng những chính sách giá và cơ chế ưu đãi rất khác nhau. Chẳng hạn, dự án Phú Lạc, EVN là nhà đầu tư nắm phần lớn cổ đông và nhận được vốn ưu đãi từ Chính phủ Đức, có giá bán điện thực chất là 6,8 US cent/kWh (theo kỳ vọng, họ được bán với giá 7,8 US cent/kWh, trong đó 1 US cent do chính phủ hỗ trợ nhưng cuối cùng họ không nhận được hỗ trợ này) còn dự án Công Lý có giá bán điện là 9,8 US cent/kWh (trong khi thời kỳ đầu là 7,8 US cent/kWh) Tuy hiện nay, có rất nhiều người muốn đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam, họ vẫn đợi những cơ chế ưu đãi rõ ràng hơn từ chính phủ.Phóng viên: Điều gì là khó khăn lớn nhất trong việc tạo ưu đãi cho những người đầu tư vào điện gió hiện nay ở Việt Nam?Ông Tobias Cossen: Khó khăn lớn nhất vẫn là xác định đúng giá bán điện gió. Có ba mức giá bán điện gió: trên bờ, gần bờ và xa bờ. Trên bờ hiện nay là 7,8 US cent/kWh và gần bờ là 9,8 US cent/kWh. Điều quan trọng là làm sao để nâng giá bán điện lên một mức nào đó đủ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nhưng, thế nào là hấp dẫn? Hơn nữa, Việt Nam là một nước đang phát triển nên khả năng chi trả cũng có hạn. Chúng tôi đưa ra ba trường hợp: dự án được đầu tư bằng vốn ODA; bằng tiền của nhà đầu tư chiến lược; và bằng tiền của nhà đầu tư thương mại hoàn toàn. Nếu dự án được đầu tư bằng vốn ODA, dĩ nhiên bạn không cần lợi nhuận cao, tỉ suất lợi nhuận mà vốn ODA đòi hỏi gần như là 0. Dự án được đầu tư bởi nhà đầu tư chiến lược cũng không đòi hỏi lợi nhuận cao vì họ đầu tư dài hạn, hàng chục năm mới cần thu lại vốn. Còn với nhà đầu tư thương mại, họ chỉ muốn bỏ tiền vào dự án trong một vài năm rồi ngay lập tức muốn bán cổ phần và thu lợi nhuận. Chúng tôi chọn lựa phương án ở giữa vì sẽ đến lúc Việt Nam không được nhận ODA nữa và do Việt Nam là một nước đang phát triển nên không để trông đợi vào việc có ai đó sẵn lòng mua điện với giá cao của nhà đầu tư thương mại. Chúng tôi đề xuất giá bán điện sẽ vào khoảng 10,4 US cent/kWh. Hiện nay, EVN đang bán cho người dân với giá thấp hơn 10,4 US cent/kWh. Vậy ai sẽ trả khoản tăng thêm đó? Chúng tôi đưa ra hai phương án, hoặc là nhà nước trợ giá toàn bộ, hoặc người dân sẽ cùng trả thêm một khoản phí, điều mà ở rất nhiều nước khác đang áp dụng. Ngoại trừ những người thu nhập thấp, mỗi hộ dân sẽ trả thêm để Việt Nam có 800MW điện gió.
Không phải là phép màu nhưng điện tái tạo sẽ giảm áp lực thiếu điện

Phóng viên: Tỷ trọng điện gió nói riêng và điện tái tạo trong tổng sản lượng điện quốc gia là không đáng kể, vì vậy, nếu phải trả thêm tiền điện bây giờ sẽ có rất nhiều người phản đối, đặc biệt là các nhà máy, xí nghiệp vốn tiêu thụ rất nhiều điện.

Ông Tobias Cossen: Chúng tôi đã tính toán, với 800 MW điện gió ở Việt Nam thì giá tăng thêm cho mỗi kWh là khoảng 3,5 đồng, một con số rất nhỏ. Mùa hè năm nay, Việt Nam sẽ thiếu điện, sẽ có tình trạng mất điện ở nhiều nơi vì một số nhà máy nhiệt điện chưa được hoàn thiện và nối lưới như kế hoạch. Đó là tình huống EVN đang rất lo lắng. Dĩ nhiên, năng lượng tái tạo không phải là một phép màu để có thể giải quyết toàn bộ vấn đề này ngay, nhưng nếu chính phủ có chính sách khuyến khích khối tư nhân tham gia vào lĩnh vực năng lượng này thì sẽ giảm được một chút áp lực cho việc thiếu điện. Hơn nữa, Việt Nam không thể theo con đường nhiệt điện nữa, bởi vì sẽ phải nhập khẩu than và than ngày càng đắt.Phóng viên: Nếu tỷ trọng điện tái tạo lớn hơn thì người dân có phải trả thêm tiền không?Ông Tobias Cossen: Có, nhưng cũng còn phụ thuộc vào cơ chế nữa. Hiện nay, điện than được nhà nước trợ giá nhưng điện tái tạo thì không. Điện than có những ưu đãi mà hiện nay điện tái tạo không có, chưa kể giá điện than không tính vào đó phí môi trường hay phí xả thải CO2. Đó là một cuộc cạnh tranh không công bằng. Về giá điện, không thể kỳ vọng giá điện tái tạo rẻ ngay từ đầu. Nó có thể cao trong giai đoạn đầu nhưng sẽ giảm theo thời gian. Khi chính phủ và những nhà đầu tư tư nhân có nhiều kinh nghiệm hơn, giá điện tái tạo sẽ giảm dần. Chẳng hạn như giá điện Mặt trời ở Đức đã giảm khoảng 10 lần trong thập kỷ qua, thậm chí còn rẻ hơn cả điện than.Phóng viên: Bên cạnh bốn dự án điện gió đang hoạt động, tình hình các dự án điện Mặt trời hay điện sinh khối ở Việt Nam ra sao?Ông Tobias Cossen: Không có nhiều dự án điện sinh khối lắm và chúng chiếm một thị phần rất nhỏ so với điện gió và điện Mặt trời. Chính phủ Việt Nam cũng ban hành giá bán điện sinh khối nhưng vẫn quá thấp nên các dự án này không thấy có lãi. Hiện nay chỉ có một dự án điện Mặt trời nhưng công suất lắp đặt chưa đến 1 MW và vì chưa có giá bán điện Mặt trời chính thức nên dự án này phục vụ cho nhu cầu cá nhân chứ không bán được điện.Phóng viên: Hiện nay, Việt Nam nên tập trung vào loại năng lượng tái tạo cụ thể nào, hay là nên làm tất cả cùng một lúc?Ông Tobias Cossen: Tôi e không có câu trả lời cho điều này. Nếu tập trung vào một thứ thì nếu nó thất bại, mọi thứ sẽ sụp đổ. Chính phủ Việt Nam phải bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo để có những kinh nghiệm riêng của mình, từ đó mới có thể đưa ra quyết định nên lựa chọn cái này hay cái kia. Chẳng hạn, với Trung Quốc, ban đầu họ cũng đầu tư cho tất cả mọi loại năng lượng tái tạo rồi đột nhiên chuyển hướng đầu tư mạnh sang năng lượng Mặt trời bởi họ nghĩ rằng đó là lựa chọn tốt nhất cho họ và họ có thể sản xuất loại điện với giá rẻ nhất. Mười năm trước, khi nhìn vào 10 công ty sản xuất pin Mặt trời hàng đầu thế giới, có 8 công ty của Đức và 2 công ty của Trung Quốc. Đến nay, tỷ lệ là 9 công ty của Trung Quốc và một công ty của Đức.Phóng viên: Chính phủ Việt Nam tiếp nhận các góp ý của GIZ như thế nào?Ông Tobias Cossen: Đó là một quá trình đầy thách thức. Vì sao lại thách thức? Chúng tôi làm việc thường xuyên với Tổng cục Năng lượng về các nội dung liên quan đến năng lượng tái tạo, Tổng cục Năng lượng trình các thông tin của chúng tôi đến Bộ Công thương, rồi trình Thủ tướng Chính phủ… Tổng cục Năng lượng chỉ có 4-5 người chịu trách nhiệm toàn bộ về mảng năng lượng tái tạo, đó quả là một trách nhiệm nặng nề với họ. Nếu có vài chục người phụ trách thì điều đó đã hoàn toàn khác. Đó sẽ là một quá trình dài sẽ có rất nhiều bên can thiệp và ảnh hưởng tới những tư vấn của chúng tôi. Một câu hỏi khác là các bạn muốn phát triển năng lượng tái tạo theo hướng nào? Theo hướng EVN vẫn nắm vai trò chính và thống lĩnh thị trường hay phát triển một thị trường điện tự do với nhiều nhà sản xuất điện tư nhân đóng góp vào việc phát triển năng lượng tái tạo? Câu trả lời cho điều này có lẽ cũng mất hàng năm trời. GIZ đã ở đây từ năm 2009 và tám năm đã trôi qua. Nhiều lúc, tôi rất muốn quyết định sẽ được đưa ra nhanh hơn nhưng việc của chúng tôi chỉ là cung cấp tư vấn.Phóng viên: Sang năm 2018, dự án này sẽ kết thúc, vậy đơn vị nào sẽ tiếp nối công việc dang dở của các ông?Ông Tobias Cossen: Hiện nay, có Hiệp hội điện gió Bình Thuận, ông Bùi Văn Thịnh - CEO của công ty Phong điện Thuận Bình với dự án Phú Lạc là chủ tịch. Cùng với ông Thịnh và Ủy ban Năng lượng toàn cầu, chúng tôi cố gắng thành lập hiệp hội năng lượng gió ở Việt Nam để khối tư nhân có tiếng nói chung, đối thoại với chính phủ trong việc phát triển điện gió ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi còn hợp tác công nghệ giữa ba trường đại học ở Đức và một số trường Việt Nam để xây dựng chương trình đào tạo cụ thể về năng lượng tái tạo. Đây là cách chúng tôi chuyển giao kinh nghiệm và nâng cao năng lực cho Việt Nam. Các trường đại học và đơn vị đào tạo ở Việt Nam có thể cung cấp nhân lực cho thị trường năng lượng tái tạo trong tương lai.Phóng viên: Xin cảm ơn ông!
1. Số liệu của World Bank là 50GW. Tuy nhiên, GIZ – đối tác thực hiện dự án này cùng với World Bank đưa ra con số thấp hơn và khả thi hơn với điều kiện của Việt Nam là 27 GW

2. Giá mà các nhà sản xuất điện nhận được khi bán một kWh điện

3. Theo quy hoạch điện VII, vào năm 2030, tổng công suất lắp đặt của điện gió Việt Nam là 6000 MW, chiếm 1% tổng sản lượng điện quốc gia. Khi đó, như GIZ tính toán số tiền mỗi kWh sẽ tăng thêm 5.3 VND so với hiện nay.

Có thể bạn quan tâm