Ngày 2/3, Bảo tàng Hà Nội cho biết, đơn vị đang phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn khai quật Di tích Thành Quèn (thôn Cổ Hiền, xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai, Hà Nội) để làm rõ quy mô, tính chất, niên đại và vị trí của di tích trong lịch sử 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Qua khai quật, các nhà nghiên cứu đã phát hiện tính chất cư trú thời Đông Hán thế kỷ 1-3.
Cuộc khai quật mở hai hố trong khu vực được xác định nằm trong khuôn viên Thành Quèn với tổng diện tích 19 m2. Cả hai hố này đều thuộc diện tích đất đang ở của các hộ dân. Qua khai quật, các nhà nghiên cứu phát hiện ở hố thứ nhất, cách cổng đình làng Cổ Hiền khoảng 130 m về phía Đông, có tầng văn hóa dày trung bình 70-100 cm; trong đó chứa nhiều mảnh ngói, gốm cứng văn in và một số mảnh gốm men, gốm đất nung, tiền đồng Ngũ thù. Tại hố khai quật thứ hai, cách cổng đình làng Cổ Hiền khoảng 130 m về phía Đông Bắc, các nhà nghiên cứu phát hiện tầng văn hóa dày khoảng 100 - 110cm; trong đó ken dày đặc mảnh ngói, gốm cứng văn in và một số mảnh gốm men, gốm đất nung và có một rìu đá mài.
Cuộc khai quật Di tích Thành Quèn đã thu được số lượng lớn mảnh vỡ của các loại hình vật liệu kiến trúc bằng đất nung và đồ gốm gia dụng; trong đó có số lượng lớn ngói cong, chủ yếu là các loại ngói màu đỏ, hồng, vàng, xám mốc, đen... có độ nung cao, thấp khác nhau. Ngói bản thường có văn chải hoặc thừng đập dọc lưng ngói; bụng ngói thường để trơn, một số bụng ngói có dấu vải. Ngói ống thường có văn chải hoặc thừng đập dọc lưng ngói, bụng ngói thường có dấu vải. Đầu ngói ống rất ít, mới phát hiện một vài tiêu bản có trang trí vân mây. Gạch có số lượng ít, thuộc loại gạch có hoa văn ô trám đơn ở cạnh dọc. Các loại gạch ngói này đều mang đặc trưng kỹ thuật và hoa văn thời Đông Hán, thế kỷ 1-3, tương tự như loại hình gạch ngói thời Đông Hán ở Di tích Luy Lâu (Bắc Ninh) và Cúc Bồ (Hải Dương)...
Đồ gốm chủ yếu là gốm cứng văn in ô vuông, ô trám, xương cá... thuộc các loại hình bình vò và nắp. Gốm men có các loại bát có chân đế thấp, bình vò, nắp... thuộc loại gốm men trắng mỏng. Hai loại đồ gốm cứng và gốm men này đều mang đặc trưng chung của loại hình gốm thế kỷ 1-3 từng phát hiện tại các di tích Đông Hán ở miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, tại đây còn có loại nồi gốm đất nung đập văn thừng thô kiểu Đông Sơn. Các nhà nghiên cứu còn phát hiện một số mảnh gốm men trắng vẽ lam thời Hậu Lê nằm trong lớp xáo trộn liền sát bên trên bề mặt xuất lộ tầng văn hóa hố thứ nhất. Ngoài ra, còn có các di vật khác như: một số tiền đồng Ngũ thù trong tầng văn hóa hố thứ nhất và rìu đá kiểu Đông Sơn trong hố thứ hai.
Kết quả khai quật khẳng định, Thành Quèn có tính chất cư trú thời Đông Hán thế kỷ 1-3. Có thể Thành Quèn chính là huyện trị của một huyện thuộc quận Giao Chỉ thời Đông Hán. Hiện, các nhà nghiên cứu chưa phát hiện dấu tích và di vật thời Lục Triều và Tùy Đường. Đến thế kỷ 10, huyện thành này có thể được sử dụng để làm trung tâm hoạt động của một lực lượng sứ quân (theo sử sách và dân gian có thể là sứ quân Đỗ Cảnh Thạc). Từ thời Hậu Lê, có thể có cư dân mới bắt đầu cư trú ở khu vực này.
Cuộc khai quật Di tích Thành Quèn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Bảo tàng Hà Nội nằm trong chương trình nghiên cứu lâu dài về thiên niên kỷ đầu Công nguyên ở miền Bắc Việt Nam.
Đinh Thuận