Có tới gần 80% dân số tham gia sản xuất, nông nghiệp không chỉ là ngành chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu mà còn là ngành gây ra phát thải khí nhà kính rất lớn. Với trách nhiệm giảm phát thải để góp phần giảm nhẹ biến đổi khí hậu toàn cầu, hướng tới nền kinh tế xanh, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng xu thế tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh.
Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam đã cam kết rất mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về việc đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. TTXVN giới thiệu bài 2 trong chùm bài viết về Nông nghiệp xanh nhằm nhìn nhận những nỗ lực của Việt Nam đưa nền nông nghiệp hướng tới dòng chảy mới của thị trường.
Bài 2 - Dấu chân hợp tác xã trên hành trình xanh
Nông nghiệp xanh có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất theo chuỗi giá trị và cũng là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới; trong đó, có Việt Nam. Những mô hình sản xuất xanh của hợp tác xã đang từng bước khắc phục điểm yếu cố hữu của sản xuất nông nghiệp như mất an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao và tạo việc làm ổn định. Tuy nhiên, dù được coi là hướng đi đúng, phù hợp với yêu cầu nhập khẩu của nhiều nước trên thế giới nhưng nhiều ý kiến cho rằng cần có thêm cơ chế, định hướng rõ ràng để tạo thuận lợi cho hợp tác xã khi áp dụng nông nghiệp xanh vào thực tiễn.
Thay đổi tư duy
Ông Nguyễn Ngọc Bảo- Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA) cho biết: Đến cuối năm 2021, cả nước có 18.327 hợp tác xã nông nghiệp và 79 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, tăng 7.917 hợp tác xã so với năm 2013, rải rác trên khắp cả nước.
Hầu hết diện tích canh tác có hiệu quả, cho năng suất cao đều đang tập trung trong các hợp tác xã. Do vậy, hợp tác xã có vai trò nòng cốt và là đơn vị tiên phong trong định hướng sản xuất nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn.
Với tiêu chí giảm sử dụng phân bón hoá học, chất thải hữu cơ từ quá trình sản xuất, đang được các hợp tác xã tận dụng để sản xuất phân bón góp phần vừa giảm chi phí đầu vào vừa làm đẹp cảnh quan và giảm phát thải ra môi trường. Việc này giúp hạn chế đáng kể sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ.
Hoạt động sản xuất tại Hợp tác xã nông nghiệp Thới Thạnh (ấp Xương Thạnh A, xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú). Ảnh: Hồng Đạt – TTXVN
Bên cạnh đó, để giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, các thành viên hợp tác xã còn hướng dẫn cho nhau công thức sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học hoàn toàn từ nông sản như tỏi, ớt, gừng… giúp bảo vệ những luống rau hữu cơ nhằm đảm bảo sức khoẻ người lao động vừa bảo vệ chất lượng nông sản đến tay người tiêu dùng.
Nhận định về vấn đề này, các chuyên gia cho rằng: Nông nghiệp xanh ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống của người dân và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp.
Do đó, trước thực tế nhu cầu tiêu dùng nông sản an toàn của người dân ngày càng cao và để tạo ra nguồn thực phẩm sạch, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đáp ứng nhu cầu thị trường, các hợp tác xã đã và đang tập trung quy hoạch, phát triển vùng sản xuất an toàn, thân thiện với môi trường.
Gia Cát đang là một trong những vùng rau chủ lực trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn với tổng diện tích trên 50 ha rau màu VietGAP, hữu cơ. Nhiều mô hình nằm trên vùng đất phù sa màu mỡ ven sông Kỳ Cùng đang phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh.
Ông Hoàng Văn Thuận, Giám đốc Hợp tác xã Rau, củ, quả sạch Gia Cát cho hay: Sản xuất an toàn sinh thái, ứng dụng hiệu quả công nghệ cao là chìa khóa giúp hợp tác xã tăng trưởng ổn định bất chấp ảnh hưởng tiêu cực từ dịch COVID-19 và duy trì mức lợi nhuận trên 400 triệu đồng/năm.
Tương tự, theo bà Hoàng Thị Hậu, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp sạch hữu cơ Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, thời gian đầu khi bắt tay vào canh tác hữu cơ, hiệu quả mang lại còn khá thấp bởi thị hiếu của người tiêu dùng về sản phẩm này còn khá mơ hồ nên việc tiêu thụ khó khăn. Ngoài ra, canh tác hữu cơ đòi hỏi nhiều công sức, trong khi sản lượng lại không cao bằng khi sử dụng nhiều loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hoá học.
Công nhân làm việc tại Hợp tác xã nông nghiệp Thới Thạnh (ấp Xương Thạnh A, xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú). Ảnh: Hồng Đạt – TTXVN
Thế nhưng, với sự đồng lòng và quyết tâm của các thành viên, đến nay sản phẩm hữu cơ của hợp tác xã bán ra với giá bình quân lên tới 24.000 đồng/kg, cao hơn nhiều so với rau, củ, quả được gieo trồng theo phương thức truyền thống có sử dụng hoá chất. Hơn nữa, chất lượng sản phẩm luôn được hợp tác xã bảo đảm nên cầu luôn vượt cung, doanh thu cũng từ đó liên tục tăng trưởng.
Bà Đồng Thị Vinh, Giám đốc Hợp tác xã rau quả an toàn Hồng Hà, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội chia sẻ, để tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, hạn chế ô nhiễm môi trường, hợp tác xã yêu cầu thành viên không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học; đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến sản phẩm… Hiện tại, trung bình mỗi ngày hợp tác xã thu hoạch 5 tạ rau, cung cấp cho các siêu thị, cửa hàng tiện ích với doanh thu từ 3,5 - 4 triệu đồng.
Thêm cơ chế hỗ trợ
Mặc dù có những chuyển biến tích cực nhưng theo đánh giá từ Liên minh Hợp tác xã một số địa phương, đa phần hợp tác xã đều thiếu chủ động, có tâm lý trông chờ vào nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, các mô hình ứng dụng công nghệ cao vẫn chưa đồng bộ tất cả các khâu sản xuất, sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu.
Đại diện Liên minh Hợp tác xã Lạng Sơn cho biết: Mỗi năm, Liên minh Hợp tác xã tỉnh duy trì 7 lớp tập huấn nhằm nâng cao nhận thức của thành viên hợp tác xã về ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời, lựa chọn một số hợp tác xã có khả năng, tiềm lực để tư vấn, hỗ trợ đẩy mạnh ứng công nghệ cao và lựa chọn các công nghệ phù hợp.
Trong thời gian tới, tỉnh sẽ đẩy mạnh lồng ghép các chương trình, dự án, bố trí nguồn vốn ưu tiên, nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hàng năm để hỗ trợ hợp tác xã sản xuất theo hướng nông nghiệp xanh. Đồng thời, hướng dẫn hợp tác xã đăng ký quy trình, hoàn thiện nhãn mác, bao bì và tem truy xuất, góp phần xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho nông sản.
Vườn vải áp dụng kỹ thuật làm vải trong thân của anh Ngô Văn Hùng, thành viên của HTX Thanh Hải, cho năng suất và chất lượng cao hơn và dễ thu hoạch hơn. Ảnh: Danh Lam-TTXVN
Theo các chuyên gia, ngoài ý thức của người dân và thành viên trong sản xuất vẫn chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho phát triển nông nghiệp xanh.
Bởi, nếu không có hành lang pháp lý rõ ràng, việc sản xuất nông nghiệp xanh sẽ trở thành thách thức lớn cho hợp tác xã, các hợp tác xã không biết bám vào hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn hay quy chuẩn nào để thực hiện.
Ông Hoàng Văn Thám, Giám đốc Hợp tác xã rau quả sạch Chúc Sơn, thành phố Hà Nội đề xuất, các ban ngành cần sớm xây dựng, triển khai sàn giao dịch chuyên về nông sản an toàn để kết nối giữa nhà sản xuất, hợp tác xã với người tiêu dùng.
Cùng đó, các địa phương cần tạo thêm cơ chế giúp hợp tác xã hoàn thành mục tiêu sản xuất theo hướng xanh, nâng chất cho sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và thu nhập cho thành viên hợp tác xã.
Vườn vải nhà anh Ngô Văn Hùng, thành viên của HTX Thanh Hải, đạt tiêu chuẩn xuất Nhật. Ảnh: Danh Lam-TTXVN
Để mô hình nông nghiệp xanh ngày càng lan toả, ông Nguyễn Ngọc Bảo khẳng định: Tới đây, VCA sẽ mở các lớp đào tạo tập huấn và phối hợp với youtube, tictok đăng tải video hướng dẫn kỹ thuật cho thành viên hợp tác xã tiếp cận nhiều hơn.
Mặt khác, VCA còn đăng tải tài liệu kỹ thuật trên trang web chính thức vca.org.vn và Liên minh các tỉnh, thành phố; chia sẻ kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh để nhân rộng mô hình và phát triển bền vững.(Còn tiếp)
Uyên Hương