Trong gần 3 ngày Quốc hội thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội (từ mùng 3-5/11), một trong những vấn đề nhiều đại biểu quan tâm đề cập là tình trạng thiên tai bão chồng bão, lũ chồng lũ, sạt lở đất xảy ra ở một số tỉnh miền Trung từ trung tuần tháng 10/2020 đến nay và những tác động từ các công trình thủy điện. Sáng 5/11, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã giải trình một số vấn đề đại biểu quan tâm.
Việt Nam đứng thứ 7 trong số các quốc gia có cực đoan và rủi ro thiên tai cao nhất
Với trách nhiệm của người quản lý ngành Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Trần Hồng Hà bày tỏ chia sẻ với những đau thương, mất mát, khó khăn mà cán bộ, chiến sỹ và người dân miền Trung đang phải gánh chịu.
Cung cấp tới đại biểu một số thông tin mang tính chất khoa học, khách quan, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, theo báo cáo của Ủy ban về rủi ro thiên tai của Liên hợp quốc, biến đổi khí hậu cực đoan đến mức con người rất khó kiểm soát, khi cường độ, tần suất trong 40 năm qua đã tăng 4 lần, trong đó bão, lũ chiếm khoảng 40%. Giai đoạn 1980 - 1999 có 4.212 trận thiên tai được xác định là thiên tai lớn; giai đoạn 2.000 - 2019 đã có 7.348 trận thiên tai, trong đó loại hình thiên tai xảy ra nhiều nhất là: lũ (3.254 lượt, chiếm 44%), bão (2.043 lượt, chiếm 28%). Theo thống kê, 100 năm qua, mặc dù số lượng thiên tai tăng, nhưng nguy cơ đến con người giảm đi. Việt Nam ở trong vòng bão của Tây Nam Thái Bình Dương, đứng thứ 7 trong số các quốc gia có cực đoan và rủi ro thiên tai cao nhất, đứng thứ 16 trong số các nước liên quan đến khí hậu cực đoan đã được đánh giá.
Xu hướng của thế giới và khu vực cho thấy, tính cực đoan của thời tiết tăng lên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam. Từ năm 2009, Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo tiến hành hai chương trình nghiên cứu dự báo lũ ống, lũ quét các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, miền Trung và chương trình điều tra tai biến địa chất, cảnh báo sạt lở ở các khu vực vùng núi Tây Nguyên, Tây Bắc và miền Trung. Qua kết quả nghiên cứu trên cho thấy, hiện trạng của các điểm xảy ra thiên tai vừa qua là tổ hợp các dạng thiên tai. Bốn cơn bão (trong đó cơn bão số 9 mạnh nhất trong 20 năm qua), cùng với hình thái thời tiết là vùng áp suất duy trì rất lâu ở miền Trung đã tạo ra lượng mưa vượt qua các chỉ số đo lịch sử, như Quảng Nam lên đến trên 500mm/ngày. Có những nơi, tổng lượng mưa đo được trong cả đợt từ 2.000 đến 4.000 mm.
“Có thể nói, trời đổ nước xuống chứ không phải là mưa nữa. Đây là vấn đề lịch sử và chúng ta chưa có số liệu để có thể tính toán được”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Người đứng đầu ngành Tài nguyên và Môi trường cho hay, các vùng sạt lở như Trạm Kiểm lâm 67, Rào Trăng 3 (Phong Điền, Thừa Thiên - Huế), Cha Lo, Minh Hóa (Quảng Bình), khu vực Đoàn Kinh tế quốc phòng 337, Hướng Hóa (Quảng Trị), Trà Leng, Trà Vân, Phước Lộc (Quảng Nam) có độ cao từ 300 - 900 m, nên “chưa có vấn đề do thủy điện, chúng ta không nên suy đoán mà phải dựa trên cơ sở khoa học”.
Ông Trần Hồng Hà cũng cho biết, toàn bộ khu vực này nằm có địa hình đồi núi dốc, trọng lực trượt, độ dốc của sông, suối đều theo hình chữ V và nằm trong đứt gãy địa chất. Các đứt gãy này thời gian qua có sự chà sát và tạo ra độ phong hóa từ 9 - 16 m, làm cho đất đá bị nát vụn, độ gắn kết rất thấp. Địa hình, địa chất trên, cộng với lượng mưa lớn làm gia tăng trọng lực trượt đất, dẫn đến nguy cơ sạt lở lớn.
Bộ trưởng cho rằng, còn một vấn đề nữa cần đánh giá, đó là rừng tự nhiên, thảm thực vật tự nhiên liên quan đến rừng trồng. Qua quan sát từ vệ tinh, rừng trồng do các binh đoàn thực hiện đã phủ xanh 100%. Độ che phủ của khu vực phát triển cây lâm nghiệp đạt từ 60 - 80 %. Khu vực trồng cây nông nghiệp có độ che phủ là 50%.
Không hy sinh môi trường để đánh đổi lợi ích kinh tế
Cũng theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, hồ chứa ở miền Trung không thể thiết kế quy mô và lưu lượng để có thể cắt được đỉnh lũ, nhưng do điều tiết nhịp nhàng, chặt chẽ, khoa học nên đã cắt giảm được lũ ở phía dưới từ 30 đến 70%. Hầu hết các hồ chứa lớn hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra 11 quy trình điều tiết trên 11 lưu vực sông đều có chức năng cung cấp nước cho mùa cạn, bổ sung từ 30 -50% lượng nước. Đặc biệt là đối với miền Trung, việc hồ chứa cung cấp nước trong mùa cạn là nhu cầu tất yếu, không thể thay thế vấn đề thích ứng bằng việc cần phải có các hồ chứa và các hồ chứa đều đặt mục tiêu cung cấp nước trong mùa cạn lên hàng đầu, bên cạnh mục tiêu phát điện.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhìn nhận, vấn đề này cần có đánh giá xem việc chuyển đổi mục đích rừng như thế nào. Không thể không chuyển đổi mục đích rừng, bởi, khi dân số của nước ta đạt trên 100 triệu người cần có không gian để phát triển đô thị, bố trí dân cư. Tuy nhiên, việc chuyển đổi đó cần phải tính toán lợi ích, xác định chức năng những khu vực cần phải giữ, phải bảo vệ như rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng tự nhiên có chức năng xin báo cáo như vậy.
Khẳng định các thủy điện nhỏ không có lỗi, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, lỗi là do chúng ta chưa phân tích được lợi ích, các tính năng thiết kế hiệu quả và công nghệ. “Nếu chúng ta tính toán thiết kế được các công trình này hài hòa với tự nhiên (thực tế có thể làm được), vẫn có thể duy trì được nguồn điện năng nhưng không phải biến đổi quá lớn đến tự nhiên”, ông nói.
Nhận định có sự khủng hoảng về tư duy lựa chọn các mô hình phát triển, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, với dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi (được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10), Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thể chế hóa Nghị quyết 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về con đường phát triển bền vững, tăng trưởng xanh; chỉ đạo của Thủ tướng về không hy sinh để đánh đổi môi trường, trong đó, thay đổi tư duy khai phá và chế ngự tự nhiên bằng sống hài hòa với tự nhiên, giải quyết những vấn đề cần ưu tiên, dựa trên những thành tựu của khoa học, công nghệ để đảm bảo hiệu quả, hiệu lực.
Chu Thanh Vân