Đồng bào Khmer ở Cần Thơ vui Tết quân dân

Du khách nước ngoài thích thú trải nghiệm giã cốm dẹp tại Tết quân dân. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN
Du khách nước ngoài thích thú trải nghiệm giã cốm dẹp tại Tết quân dân. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Ngày 12/4, tại Khu Di tích lịch sử An Nam Cộng sản Đảng, thị trấn Cờ Đỏ, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ phối hợp với UBND huyện Cờ Đỏ tổ chức Tết quân dân lần thứ 2 năm 2022. Sau thời gian dài các hoạt động vui chơi bị gián đoạn do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, ngày Tết quân dân là dịp đồng bào Khmer nói riêng cũng như người dân ở Cờ Đỏ và các địa phương lân cận thành phố Cần Thơ được dịp vui chơi, giao lưu với nhau.

Đồng bào Khmer ở Cần Thơ vui Tết quân dân ảnh 1Tác phẩm "Tôn tạo, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Khmer" đạt giải nhì hội thi tạo hình nghệ thuật tại Tết quân dân. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Lưu giữ văn hóa Khmer
Từ sáng sớm, đông đảo đồng bào Khmer đã tập trung về Khu Di tích An Nam Cộng sản Đảng cùng nhau thi gói bánh tét, bánh namboong, giã cốm dẹp, làm bánh ống,... đem lại niềm vui, ý nghĩa trong dịp Tết Chôl Chnăm Thmây.

Tham gia quết cốm dẹp trong Hội thi làm bánh, bà Thạch Thị Che, xã Thới Xuân (huyện Cờ Đỏ) hào hứng chia sẻ: Tết Chôl Chnăm Thmây năm nay vui hơn mọi năm khi có thêm Tết quân dân. Bà con vui mừng, phấn khởi hơn khi được tập trung vui chơi, được cùng nhau thi tài. Sau thời gian dài chịu ảnh hưởng dịch COVID-19, đây là dịp mọi người tập hợp cùng nhau đông vui như vậy.

Đồng bào Khmer ở Cần Thơ vui Tết quân dân ảnh 2Món cốm dẹp được trưng bày tại hội thi. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Mừng Tết Chôl Chnăm Thmây năm 2022 là góp phần duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Khmer. Gói và nấu bánh tét, quết cốm dẹp, làm bánh ống hấp... là những việc làm không thể thiếu của đồng bào trong dịp lễ, Tết, đặc biệt là lễ Chôl Chnăm Thmây. Vì vậy, Hội thi được tổ chức dịp Tết quân dân góp phần duy trì các loại bánh đặc trưng của đồng bào Khmer.

"Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện kết nối nghệ nhân giới thiệu, trình diễn cách làm món bánh namboong và món bánh ống hấp... để mọi người hiểu và biết thêm về món bánh đặc trưng của dân tộc Khmer. Hội thành lập Câu lạc bộ quết cốm dẹp ở xã Đông Thắng, Câu lạc bộ làm món dưa môn muối ở thị trấn Cờ Đỏ để lưu giữ và tuyên truyền cho thế hệ sau bảo tồn truyền thống của dân tộc Khmer", bà Nguyễn Thị Thúy, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Cờ Đỏ cho biết.

Hội thi làm các món bánh truyền thống nhằm tái hiện và lưu giữ nét văn hóa người Khmer. Bên cạnh đó, Ban Tổ chức Tết quân dân còn tổ chức Hội thi cắm hoa, Hội thi tạo hình... Với sản phẩm tạo hình mang tên chủ đề "Tôn tạo, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Khmer" được tạo nên từ những nguyên vật liệu như: Xoài keo, quả thốt nốt, món dưa môn muối, lúa, mô hình đầu rắn....

Không khí Tết quân dân mang đậm nét văn hóa truyền thống Khmer thêm rộn ràng qua các trò chơi dân gian như: Đẩy gậy, kéo co, đập niêu... được đông đảo quân nhân, thanh niên các địa phương tham gia.

Theo Đại tá Phạm Ngọc Quang, Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Cần Thơ, lực lượng vũ trang thành phố mong muốn Tết quân dân mừng Chôl Chnăm Thmây mang đến cho bà con dân tộc Khmer niền vui trọn vẹn; làm sao nhà nhà, người người đều có Tết. Qua Tết này, tình quân dân "cá nước" thêm gắn kết hơn, đặc biệt lực lượng vũ trang thành phố có dịp hiểu thêm tập quán, nét đẹp đồng bào dân tộc Khmer dịp Tết đến, Xuân về.

Đồng bào Khmer ở Cần Thơ vui Tết quân dân ảnh 3Cốm dẹp là món bánh truyền thống được người dân Khmer làm mỗi dịp lễ, tết. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Chăm lo đời sống người dân

Thành phố Cần Thơ hiện có khoảng 20.000 đồng bào Khmer sinh sống, tập trung ở các huyện Cờ Đỏ, Thới Lai và quận Ô Môn. Tập trung chăm lo, đảm bảo đời sống an sinh cho đồng bào dân tộc Khmer dịp Tết cổ truyền là điều Ban tổ chức Tết quân dân hướng đến.

Ngoài các hội thi, trò chơi, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ phối hợp với các địa phương xây dựng nhiều công trình phúc lợi xã hội, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho người có hoàn cảnh khó khăn ở các xã, thị trấn. Trong dịp Tết này, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố đã trao 500 phần quà cho gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo của các huyện Cờ Đỏ, Thới Lai và quận Ô Môn; tặng 100 suất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học,...

Đồng bào Khmer ở Cần Thơ vui Tết quân dân ảnh 4Du khách nước ngoài thích thú trải nghiệm giã cốm dẹp tại Tết quân dân. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Trước đó, Ban Tổ chức huy động lực lượng vũ trang địa phương thực hiện các công trình dân sinh như: Xây nhà nghĩa tình đồng đội, làm đèn chiếu sáng, sơn sửa chùa Khmer; tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc...

Đón nhận căn "Nhà đồng đội" từ nguồn hỗ trợ của Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ, anh Đào Lắm, Phó Chỉ huy trưởng, Ban Chỉ huy Quân sự xã Đông Thắng (huyện Cờ Đỏ) rất xúc động vì gia đình anh năm nay đã được ăn Tết cổ truyền trong căn nhà mới.

Anh Đào Lắm cho biết, gia đình anh vô cùng xúc động và vui mừng trước sự quan tâm của Ban Tổ chức Tết quân dân mừng Chôl Chnăm Thmây khi hỗ trợ anh xây dựng "Nhà đồng đội", tạo điều kiện cho gia đình anh có cuộc sống ổn định để khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống.

Trong thời gian diễn ra Tết quân dân mừng Chôl Chnăm Thmây, hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, các ban, ngành đoàn thể huyện Cờ Đỏ cùng bà con dân tộc Khmer tích cực hưởng ứng, tham gia thực hiện nhiều công trình, phần việc đem lại hiệu quả thiết thực.

Thu Hiền

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm