Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh

Các chư đại đức tăng Khmer từ giảng đường đi vòng quanh chánh điện tại Lễ đặt bát hội dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu
Các chư đại đức tăng Khmer từ giảng đường đi vòng quanh chánh điện tại Lễ đặt bát hội dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu

Từ ngày 13 - 15/10/2023 (ngày 29 tháng 8 đến ngày 01 tháng 9 năm Quý Mão), tại Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra Lễ Sen Đôn Ta (Vu lan báo hiếu) của người Khmer với nhiều hoạt động thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, ông bà, những người đã khuất, cầu phước, cầu an cho cá nhân, gia đình.

Lễ Sen Đôn Ta của đồng bào Khmer mang màu sắc tín ngưỡng dân gian xen lẫn tôn giáo, mang đậm nét màu sắc văn hóa dân tộc. Nghi lễ thể hiện được truyền thống đạo lý "cây có cội, nước có nguồn", mang tính nhân văn và tính giáo dục đạo đức sâu sắc. Lễ Sen Đôn Ta đã tạo nên sự gắn kết sum họp gia đình, thắt chặt tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong phum sóc, cũng là dịp để mọi người gặp gỡ nhau thăm hỏi, trao đổi công việc.

Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 1"Đặt cơm vắt" là một trong những nghi thức quan trọng trong Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer, nhằm tạo phước hồi hướng cho những người đã khuất. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 2Phật tử Khmer đặt cơm vắt xung quanh chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) trong khuôn khổ lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 3Lễ phẩm dùng cho nghi thức "Đặt cơm vắt" gồm có cơm vắt, thức ăn mặn ngọt, nước, hoa quả được bày vào mâm, đặt theo 8 hướng xung quanh ngôi chánh điện dịp lễ Sen Đôn Ta của người Khmer. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 4Thiếu nữ Khmer đặt cơm vắt tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) dịp lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 5Đồng bào Khmer đi lễ chùa cầu an tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) dịp lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 6Các nam nữ Khmer tham dư lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu  
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 7Buộc chỉ đỏ cầu bình an dịp lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu 
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 8Hàng nghìn người Khmer đã tập trung về chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) để tham dự lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 9

Lễ đặt bát hội với sự tham của 150 vị sư và hàng ngàn phật tử Khmer tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) dịp lễ Sen Đôn Ta. Ảnh: An Hiếu

Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 10Các chư đại đức tăng Khmer từ giảng đường đi vòng quanh chánh điện tại Lễ đặt bát hội dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu  
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 11Phật tử Khmer cúng dường các chư đại đức tăng dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu   
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 12Quang cảnh Lễ đặt bát hội dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu  
 
Đầm ấm Lễ Sen Đôn Ta của người Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh ảnh 13Chư tăng tụng kinh hồi hướng phước báo, độ thực từ vật thực do Phật tử cúng dường dịp lễ Sen Đôn Ta tại chùa Chantarăngsây (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: An Hiếu  

An Hiếu

(Báo ảnh Dân tộc và Miến núi)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm