Việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế cho mọi người dân, trong đó có một bộ phận chiếm tỷ lệ lớn là học sinh, sinh viên đã được quy định thống nhất, mang tính bắt buộc trong Luật Bảo hiểm y tế. Đây được xem là nền tảng quan trọng trong thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân ở nước ta. Việc thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên không chỉ đem lại lợi ích cho cá nhân học sinh, sinh viên, mà còn thể hiện trách nhiệm của học sinh, sinh viên đối với cộng đồng và đối với xã hội.
Phát huy hiệu quả chính sách bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
Với sự chủ động, tích cực vào cuộc của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương, những năm gần đây, tỷ lệ học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế ở nước ta tăng dần qua các năm. Nếu như năm học 2018-2019, cả nước có khoảng hơn 17,4 triệu học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế (đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 94,2%) thì đến năm học 2019-2020, cả nước có hơn 17,7 triệu học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế (đạt tỷ lệ bao phủ khoảng 95,2%), tăng 1% so với năm học 2018-2019.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết, năm học 2020-2021, mặc dù bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 song nhờ có sự quan tâm, chỉ đạo của các bộ, ngành, địa phương và sự hưởng ứng của đông đảo phụ huynh cũng như học sinh, sinh viên, việc triển khai chính sách bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên tiếp tục đạt những kết quả tích cực. Số học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế là hơn 18 triệu học sinh, sinh viên, tăng 1,6% so với năm học 2019-2020. Trong đó, có hơn 14,5 triệu tham gia theo nhóm học sinh, sinh viên và 3,5 triệu học sinh, sinh viên tham gia theo nhóm khác (như hộ nghèo, hộ cận nghèo, thân nhân lực lượng vũ trang...).
Nhiều địa phương học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế đạt tỷ lệ cao như: Hà Giang, Hải Dương, Ninh Bình, Cần Thơ, Bắc Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Nam, Tuyên Quang… Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên chưa nhận thức được đầy đủ về quyền lợi, tính nhân văn của chính sách bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên nên chưa tham gia (chủ yếu là nhóm học sinh, sinh viên từ năm thứ 2 trở lên của các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề).
Điều này khiến các em bị thiệt thòi khi không được hưởng quyền lợi chăm sóc sức khỏe từ chính sách bảo hiểm y tế. Mặt khác, nếu không may mắc phải những căn bệnh hiểm nghèo cần chi phí điều trị cao, không có thẻ bảo hiểm y tế, gia đình của các em sẽ đối mặt với những khoản chi phí khám, chữa bệnh lớn, ảnh hưởng tới kinh tế của gia đình cũng như quá trình khám, chữa bệnh của các em.
Thời gian qua, với trách nhiệm tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện tốt việc bảo đảm quyền lợi bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên; tăng cường cải cách thủ tục tham gia bảo hiểm y tế, sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi đi khám, chữa bệnh theo hướng đơn giản, thuận tiện cho học sinh, sinh viên. Đáng chú ý, từ đầu năm 2021 đến nay, người tham gia bảo hiểm y tế, trong đó có hơn 18 triệu học sinh, sinh viên được thụ hưởng nhiều chính sách mới, theo đó quyền lợi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế được đảm bảo ngày càng tốt hơn.
Nổi bật là chính sách thông tuyến tỉnh trong điều trị nội trú đối với khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế được triển khai trên quy mô toàn quốc từ ngày 01/01/2021, giúp một số trường hợp tham gia bảo hiểm y tế khi điều trị trái tuyến vẫn được hưởng 100% chi phí điều trị nội trú như đúng tuyến. Cùng với quyền lợi bảo hiểm y tế được mở rộng, từ tháng 6/2021, thủ tục khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cũng đã có sự cải tiến, mang lại lợi ích cho người tham gia nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng khi có thể sử dụng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng “VssID - Bảo hiểm xã hội số”, thay cho thẻ bảo hiểm y tế bằng giấy khi đi làm thủ tục khám, chữa bệnh.
Năm 2020, chi trả gần 2.300 tỷ đồng chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên
Theo đánh giá của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, số học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế không ngừng tăng qua các năm cho thấy, nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh, sinh viên về quyền lợi, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm y tế… đã được nâng cao. Đơn cử, nếu như trước đây, một số phụ huynh có quan niệm chỉ khi con mắc bệnh nan y, mãn tính, cần điều trị với chi phí khám, chữa bệnh lớn mới tham gia bảo hiểm y tế, thì nay, phần lớn phụ huynh đã chủ động tham gia bảo hiểm y tế cho con em mình ngay từ khi các con đang khỏe mạnh.
Từ quan niệm bị động trong tham gia bảo hiểm y tế, phụ huynh học sinh, sinh viên đã chuyển sang tâm thế chủ động, tham gia bảo hiểm y tế để chăm sóc sức khỏe cho con em khi cần, hoặc xác định rõ trường hợp không cần dùng đến thẻ bảo hiểm y tế thì chi phí tham gia bảo hiểm y tế của các con (chỉ với hơn 560 nghìn đồng/năm) coi như đóng góp vào quỹ bảo hiểm y tế để cùng thực hiện nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
Bên cạnh đó, trong xu thế quyền lợi khám, chữa bệnh về bảo hiểm y tế cho người tham gia ngày càng được mở rộng, chất lượng khám, chữa bệnh ngày càng được nâng cao, học sinh, sinh viên cũng được thụ hưởng nhiều lợi ích hơn nữa từ quỹ bảo hiểm y tế. Nhìn vào kết quả thực hiện công tác khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên thời gian qua cho thấy, quỹ bảo hiểm y tế đã chi trả cho rất nhiều bệnh nhân là học sinh, sinh viên mắc các bệnh nan y, mạn tính như: suy thận, ung thư, tim mạch,… với chi phí điều trị từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong năm 2020, số lượng học sinh, sinh viên đi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế là hơn 3,33 triệu người với hơn 6,86 lượt khám, chữa bệnh. Chi phí khám, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế chi trả là 2.296,11 tỷ đồng. Trong số này, có 193 bệnh nhân/1.545 lượt khám, chữa bệnh với chi phí từ 100-200 triệu đồng; 56 bệnh nhân/390 lượt khám, chữa bệnh với chi phí 200 – 500 triệu đồng. Chi phí từ trên 500 triệu đồng trở lên có 10 bệnh nhân/30 lượt khám, chữa bệnh.
Chẳng hạn như bệnh nhân có mã thẻ HS4747423096XXX, điều trị nội trú 1 lượt tại Bệnh viện Nhi đồng II (Thành phố Hồ Chí Minh) với chẩn đoán “Viêm cơ, không phân loại nơi khác”, chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế là 742,34 triệu đồng, trong đó, tiền thuốc là 389,71 triệu đồng; tiền xét nghiệm là 102,65 triệu đồng; tiền máu là 96,56 triệu đồng; tiền giường là 67,72 triệu đồng; tiền phẫu thuật, thủ thuật là 64,37 triệu đồng; tiền vật tư y tế là 16,55 triệu đồng…
Bệnh nhân có mã thẻ HS4494920193XXX, điều trị nội trú 2 lượt tại Bệnh viện Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng) với chẩn đoán “Bệnh phổi tác nhân không đặc hiệu; Suy hô hấp không phân loại”, chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế là 728,36 triệu đồng, trong đó, tiền thuốc là 364,39 triệu đồng, tiền vật tư y tế là 138,13 triệu đồng; tiền phẫu thuật, thủ thuật là 64,30 triệu đồng; tiền xét nghiệm là 62,41 triệu đồng; tiền giường là 46,64 triệu đồng…
7 tháng năm 2021, quỹ bảo hiểm y tế cũng đã chi trả trên 1.398 tỷ đồng cho gần 2,1 triệu bệnh nhân với hơn 3,6 triệu lượt khám, chữa bệnh. Trong đó có 4 bệnh nhân/13 lượt khám, chữa bệnh với chi phí từ 100-200 triệu đồng; 1 bệnh nhân/1 lượt khám, chữa bệnh với chi phí 523 triệu đồng. Cụ thể, bệnh nhân có mã thẻ HS4797935403XXX, điều trị nội trú 1 lượt tại Bệnh viện Nhi đồng I (Thành phố Hồ Chí Minh) với chẩn đoán “Bỏng nhiều vùng, ít nhất có một vùng bỏng độ ba”, chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế 523,01 triệu đồng, trong đó tiền thuốc là 383,99 triệu đồng; tiền phẫu thuật, thủ thuật là 66,42 triệu đồng; tiền xét nghiệm là 26,56 triệu đồng; tiền giường là 18,89 triệu đồng; tiền máu là 15,48 triệu đồng, tiền vật tư y tế là 11,14 triệu đồng.
Từ thực tiễn công tác đảm bảo quyền lợi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên, có thể thấy, thẻ bảo hiểm y tế đã ngày một minh chứng rõ nét về vai trò đảm bảo chăm sóc sức khỏe và các quyền lợi khám, chữa bệnh chính đáng của học sinh, sinh viên, tiếp thêm niềm tin, sự an tâm và động lực để các gia đình yên tâm điều trị cho con em mình, giúp các em không may ốm đau, bệnh tật có cơ hội được khám, chữa bệnh, được khỏe mạnh và sớm quay trở lại trường học.
Chu Thanh Vân