Tưng bừng Hội đua bò Bảy Núi An Giang

Ngày 29/9, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh, UBND thị xã Tịnh Biên, huyện Tri Tôn và Đài Phát thanh – Truyền hình An Giang, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội đua bò Bảy Núi tranh cúp Truyền hình An Giang lần thứ 29, năm 2024. Đây là lễ hội truyền thống nhân dịp Lễ Sene Dolta (lễ cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.

vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623316.jpg
Các đôi bò bứt tốc về đích. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Tham gia Hội thi năm nay có 64 đôi bò đến từ các huyện Tri Tôn, Thoại Sơn, Châu Phú, Châu Thành, thị xã Tịnh Biên (An Giang) và các đôi bò đến từ huyện Giang Thành (Kiên Giang). Hội thi đã góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tinh thần đoàn kết dân tộc, tạo không khí vui tươi phấn khởi, góp phần quảng bá hình ảnh Hội đua bò Bảy Núi đến người dân trong nước và thế giới.

vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623311.jpg
Anh Lê Minh Vương đang chăm sóc, vỗ về đôi bò của mình trước giờ thi đấu. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
 vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623317.jpg
Các "nài bò" (người điều khiển bò) thể hiện bò ở vòng hô (vong đi chậm) thể hiện sự khéo léo khi để đôi bò đi dúng đường đua và không đạp lên bừa của đôi bò đi trước. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623310.jpg
Ở vòng hô - vòng di chậm, các "nài bò" (người điều khiển bò) thể hiện sự khéo léo khi để đôi bò đi dúng đường đua và không đạp lên bừa của đôi bò đi trước. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623313.jpg
Các đôi bò bứt tốc về đích, với quyết tâm dành thứ hạng cao nhất. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Ông Nguyễn Xuân Bằng, Giám đốc Đài Phát thanh Truyền hình An Giang - Phó Trưởng ban Tổ chức cho biết, Hội đua bò Bảy Núi là một lễ hội nông nghiệp độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer vùng Bảy Núi An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long. Hội đua bò thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống đậm chất nhân văn, đồng thời là một sân chơi thể thao, giải trí ý nghĩa cho đồng bào Khmer Nam Bộ.

Để giành được thành tích cao nhất, các “nài bò” (người điều khiển bò) đã mải mê tập luyện từ nhiều tháng nay. Trước cuộc đua, các chủ bò bốc thăm chọn đôi bò đi trước, đi sau. Bước vào tranh tài, hai đôi bò sẽ thi đấu theo thể thức một vòng hô và một vòng thả.

vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_nam_2024_7623323.jpg
Trong suốt quá trình thu đấu, các "nài bò" (người điều khiển bò) phải đứng vững trên bừa để đôi bò đi dúng đường đua và không đạp lên bừa của đôi bò đi trước. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623315.jpg
Bắt đầu vòng thả, các đôi bò bứt hết tốc độ để về đích. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623320.jpg
Các bò về nhất sau các vòng đấu loại trực tiếp. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Vòng hô là vòng để cho các đôi bò làm quen với sân đua để lấy trớn; vòng thả- là khi có hiệu lệnh của trọng tài, người điều khiển bò dùng cây xà-lul (một khúc gỗ tròn vừa tay độ 3cm, đầu có tra cây đinh nhọn kích vào mông bò), để đôi bò vận hết sức lực băng về đích, từ đó chọn đôi bò thắng cuộc vào vòng thi đấu tiếp theo. Đôi bò giành chức vô địch phải tham gia tất cả các vòng thi đấu và chiến thắng các đối thủ...

vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_7623321.jpg
Ban tổ chức trao giải Nhất cho đôi bò mang số đeo 52 của ông Lê Văn Mới, ngụ phường An Phú, thị xã Tịnh Biên. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_nam_2024_7623333.jpg
Ban tổ chức trao giải Nhì cho đôi bò mang số đeo 24 của ông Nguyễn Văn Cưng, ngụ phường An Phú, thị xã Tịnh Biên. Ảnh: Công Mạo-TTXVN
vna_potal_tung_bung_hoi_dua_bo_bay_nui_an_giang_nam_2024_7623332.jpg
Ông Lâm Văn Bá, Phó Chủ tịch UBND thị xã Tịnh Biên (trái) trao cờ đăng cai Hội đua bò Bảy Núi An Giang năm 2025 cho huyện Tri Tôn. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Kết quả, đôi bò số 52 của ông Lê Văn Mới (phường An Phú, thị xã Tịnh Biên) đã xuất sắc giành giải Nhất. Giải Nhì thuộc về đôi bò số 24 của ông Nguyễn Văn Cưng (phường An Phú, thị xã Tịnh Biên), giải Ba thuộc về đôi bò số 12 của ông Nguyễn Ngọc Tiến (phường An Phú, thị xã Tịnh Biên) và giải Tư thuộc về đôi bò số 40 của ông Nguyễn Văn Liệt (phường An Phú, thị xã Tịnh Biên).

Ngoài ra, Ban Tổ chức trao 4 giải Khuyến khích cho 4 đôi bò lọt vào vòng tứ kết. Ông Lê Văn Mới (phường An Phú, thị xã Tịnh Biên) xuất sắc đoạt giải Người điều khiển bò xuất sắc nhất.

Năm 2016, Hội đua bò Bảy Núi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đến nay, qua 29 lần tổ chức, Hội đã trở thành nét văn hóa độc đáo của cộng đồng vùng Bảy Núi ở huyện Tri Tôn và thị xã Tịnh Biên, thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Hội đua bò Bảy Núi An Giang năm nay, dù thời tiết nắng gắt, nhưng vẫn có hàng chục ngàn lượt du khách đến xem và cổ vũ thi đấu, qua đó, khẳng định sự hấp dẫn, độc đáo của lễ hội truyền thống riêng có ở vùng Bảy Núi An Giang./.

Công Mạo

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm