Ngư dân chuyển rong mơ từ tàu sang thuyền thúng để đưa vào bờ. Ảnh: Nguyên Lý/TTXVN
|
Do đó, việc đặt biển vào vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước như nội dung Chiến lược khai thác sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, tại Quyết định số 1570 ngày 6/9/2013 là một hướng đi đúng, một cách nhìn xa trông rộng.
Điều đó thể hiện tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm chính trị và tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với việc phát triển và quản lý 3/4 Tổ quốc Việt Nam là biển.
Phó Giáo sư ,Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận xét: Chiến lược biển Việt Nam đề cập đến một vấn đề vừa rộng lớn về quy mô, vừa phức tạp về các mối quan hệ phát triển (kinh tế, quản lý, an ninh, quốc phòng, khoa học-công nghệ, tài nguyên-môi trường…).
Vừa đòi hỏi tính bao quát toàn diện và một tầm nhìn dài hạn, cũng như các giải pháp mang tính đột phá, nhằm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.
Tại Kỳ họp thứ 9 ngày 25/6/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Đây là cơ sở pháp lý đặc biệt cần thiết để phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn hơn nữa.
Trong lịch sử, hiện tại và tương lai, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km từ Bắc xuống Nam, chiếm tỷ lệ khoảng 100 km2 đất liền/1 km bờ biển (mức trung bình trên thế giới 600 km2 đất liền/1 km bờ biển); hơn 3.000 hòn đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và 28 tỉnh, thành phố giáp biển.
Trong lịch sử, hiện tại và tương lai, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km từ Bắc xuống Nam, chiếm tỷ lệ khoảng 100 km2 đất liền/1 km bờ biển (mức trung bình trên thế giới 600 km2 đất liền/1 km bờ biển); hơn 3.000 hòn đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và 28 tỉnh, thành phố giáp biển.
Nên từ bao đời nay Biển Đông không những cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân trong nước, mà còn là cửa ngõ để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế có quan hệ trực tiếp với mọi miền đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa.
Khai thác dầu khí ở vùng biển Vũng Tàu. Ảnh: TTXVN |
Biển, đảo là điều kiện đặc biệt cần thiết để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như thuỷ sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tầu, du lịch... Trong đó, dải bờ biển đã tạo ra tiềm năng to lớn cho ngành giao thông hàng hải.
Theo báo cáo của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam: Bờ biển nước ta có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển đạt 50 triệu tấn/năm. Về nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học, vùng biển nước ta đã phát hiện được 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000 loài dộng vật đáy, 2.400 loài cá, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển...
Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng 3,1-4,1 triệu tấn, khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thuỷ sản trở thành một trong những ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 cả nước.
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Đến nay đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn ... được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4-5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3.
Dọc theo bờ biển có 125 bãi biển lớn, nhỏ nông thoải, nước trong và sạch, nắng ấm quanh năm, không khí trong lành với cảnh quan đẹp... là điều kiện lý tưởng để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp. Vì vậy, ngành du lịch biển của nước ta hàng năm thu hút khoảng 15 triệu lượt khách, trong đó có 3 triệu khách quốc tế, đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm.
Nhờ đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vụng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non Nước..., các di tích lịch sử và văn hóa như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm…đều được phân bố ở vùng ven biển.
Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, tắm biển, du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước. Riêng du lịch thể thao bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền có thể tổ chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm. Chưa kể dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế.
Vùng ven biển còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá, chúng được biết dến với nhiều tên gọi khác nhau, sa khoáng titan, sa khoáng ilmenit, sa khoáng cát đen.
Phút nghỉ ngơi giữa giờ luyện tập của những người lính đảo. Ảnh TTXVN |
Tuy vậy, do đặc điểm là vùng nhiệt đới gió mùa, nên một số vùng biển nước ta thường xảy ra thiên tai với cường độ lớn và tần suất cao, làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân vùng ven biển, cũng như trong việc khai thác tiềm năng kinh tế biển. Bên cạnh đó, quy mô phát triển kinh tế biển còn manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng. Cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới chỉ phát triển trên một diện hẹp; chưa hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để vươn ra vùng biển quốc tế.
Trong khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi kinh tế biển vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ. Hệ thống hạ tầng còn thiếu thốn, yếu kém, chưa đồng bộ; đang thiếu những cảng biển lớn với dịch vụ hậu cần quy mô, hệ thống những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ biển, các cơ sở dự báo thiên tai từ biển đang bộc lộ những yếu kém, bất cập…
Đặc biệt, công tác hợp tác quốc tế về biển còn nhiều hạn chế, trong khi tranh chấp giữa các nước liên quan đến Biển Đông sẽ còn diễn ra phức tạp và khó lường. Là một quốc gia có biển, đảo, Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ này, nên việc cụ thể hóa Chiến lược khai thác sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là vấn đề cấp bách hiện nay.
Ngọn hải đăng trên đảo Phú Quý (Bình Thuận). Ảnh: TTXVN |