Nâng cao trình độ dân trí vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh là tỉnh có đồng bào dân tộc Khmer sinh sống cao nhất cả nước, chiếm gần 32% dân số của tỉnh. Các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn chú trọng công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ dân trí vùng đồng bào dân tộc Khmer. Cùng với việc đầu tư, hoàn thiện mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy học tại các trường, học sinh Khmer còn được “tiếp bước” đến trường bằng nhiều chế độ ưu đãi.

vna_potal_anh_kem_bai_phat_24_tren_220_tang_sinh_hoc_sinh_tot_nghiep_truong_trung_cap_pali-_khmer_tra_vinh__7301562.jpg
Một tiết học tại Trường Trung cấp Pali- Khmer Trà Vinh (phường 8, thành phố Trà Vinh). Ảnh: Thanh Hòa- TTXVN

Trà Vinh hiện có trên 216.000 học sinh, trong đó học sinh dân tộc Khmer hơn 78.600 em, chiếm 36,4%. Toàn tỉnh có 8 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1 Trường Trung cấp Pali-Khmer và Trường Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ và Nhân văn (thuộc Trường Đại học Trà Vinh). Hiện nay, học sinh, tăng sinh, sinh viên học tại các trường này được tiếp cận nhiều chính sách hỗ trợ.

Các trường Phổ thông dân tộc nội trú trong tỉnh thuộc diện chính sách đặc biệt ưu tiên, đảm nhiệm nhiệm vụ “vừa nuôi - vừa dạy” học sinh Khmer, góp phần đào tạo nguồn cán bộ dân tộc Khmer trình độ cao cho tỉnh.

vna_potal_anh_kem_bai_phat_24_tren_220_tang_sinh_hoc_sinh_tot_nghiep_truong_trung_cap_pali-_khmer_tra_vinh__7301561.jpg
Trường Trung cấp Pali- Khmer Trà Vinh (phường 8, thành phố Trà Vinh). Ảnh: Thanh Hòa- TTXVN

Hằng năm, Trà Vinh luôn ưu tiên bố trí nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp, đầu tư thiết bị dạy học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú. Năm 2024, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, các trường phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn được bố trí gần 48,2 tỷ đồng để thực hiện Tiểu dự án Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó, ngân sách Trung ương hơn 35,5 tỷ đồng, vốn sự nghiệp trên 12,6 tỷ đồng.

Thầy Kim Chan Ta Na, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học Phổ thông tỉnh Trà Vinh cho biết, học sinh tại các trường phổ thông dân tộc nội trú được hưởng chế độ ưu đãi theo Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các chế độ gồm: miễn học phí, hằng tháng được nhận học bổng bằng 80% mức lương cơ bản, tương đương 1.440.000 đồng; được cấp thẻ bảo hiểm y tế, học phẩm hằng năm. Học sinh mới trúng tuyển vào trường cũng được cấp đầy đủ các vật dụng sinh hoạt, áo khoác, áo mưa, đồ đồng phục… Ngoài ra, học sinh còn được hỗ trợ tiền tàu xe, điện, nước sinh hoạt…

Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học Phổ thông tỉnh Trà Vinh có tổng số 413 học sinh. Hằng năm, nhà trường tuyển sinh chỉ tiêu 140 em là đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là đồng bào Khmer. Thầy Kim Chan Ta Na cho hay, những năm gần đây, trình độ học sinh Khmer trong tỉnh được nâng lên rõ rệt. Gần 20 năm qua, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của học sinh tại Trường luôn đạt 100%. Năm học 2022-2023, phổ điểm tốt nghiệp của nhà trường đứng hạng 3/46 trường trong tỉnh; hơn 71% học sinh của trường trúng tuyển vào các Trường Đại học top đầu toàn quốc; điểm chuẩn tuyển sinh lớp 10 đầu vào cũng rất cao so với các trường trong tỉnh.

vna_potal_cac_truong_dan_toc_noi_tru_tai_tra_vinh_gop_phan_dao_tao_nguon_can_bo_dan_toc_khmer_trinh_do_cao_7301496.jpg
Giờ học của học sinh Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học Phổ thông tỉnh Trà Vinh. Ảnh: Thanh Hòa - TTXVN

Cùng được hưởng chế độ ưu đãi theo Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT, Trường Trung cấp Pali-Khmer Trà Vinh được thành lập năm 2014, là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh. Trường đào tạo theo hình thức đặc thù gồm hệ giáo dục thường xuyên, tiếng Pali, ngữ văn Khmer và giáo lý Phật giáo cho tăng sinh, học sinh Khmer đã tốt nghiệp Trung học Cơ sở và Sơ cấp Pali-Khmer hoặc tương đương (Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình tiếng Khmer cấp Trung học Cơ sở); thời gian đào tạo 3 năm/khóa.

Khi mới thành lập, Trường mượn tạm cơ sở vật chất tại chùa Kompong, phường 1, thành phố Trà Vinh. Từ năm học 2019-2020, Trường khánh thành điểm mới tại phường 8, thành phố Trà Vinh. Ngoài cơ sở vật chất được đầu tư khang trang với nhiều khu, phòng, nhà trường còn có ký túc xá đảm bảo cho hơn 144 tăng sinh, học sinh Khmer ăn, nghỉ, sinh hoạt và học tập. Từ khi thành lập đến nay, nhà trường đã tuyển sinh được 8 khóa, với tổng số 300 tăng sinh, học sinh; trong đó, 221 tăng sinh, học sinh đã tốt nghiệp.

Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Pali-Khmer Lâm So Rone cho biết, việc thành lập Trường đã đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng lớn nhất của các vị cao tăng, cán bộ lão thành cách mạng và đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh. Trường Trung cấp Pali-Khmer ra đời góp phần phát triển nguồn nhân lực có trình độ dân trí cao trong đồng bào dân tộc và sư sãi, phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh.

Bên cạnh các trường đào tạo theo hình thức đặc thù trên, tỉnh Trà Vinh còn có Trường Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ và Nhân văn (thuộc Trường Đại học Trà Vinh), với rất nhiều sinh viên dân tộc Khmer khu vực Đồng bằng sông Cửu Long theo học. Hiện, sinh viên học ngành Biểu diễn nhạc cụ truyền thống (Khmer) được miễn 100% học phí, được cấp sinh hoạt phí 450.000 đồng/tháng. Ngoài ra, hằng năm, nhà trường còn cấp phát nhiều suất học bổng đối với những em có thành tích học tập tốt.

Song song với công tác đào tạo trình độ văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ, Trà Vinh còn chú trọng việc phát triển đảng viên, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, tạo nguồn cán bộ người dân tộc Khmer đủ năng lực giữ các chức vụ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền các cấp, đảm bảo tính kế thừa.

Đến nay, toàn tỉnh có 47.022 đảng viên, trong đó, có 8.269 đảng viên dân tộc Khmer, chiếm 17,58% đảng viên toàn tỉnh; 100% ấp, khóm có đông đồng bào dân tộc thiểu số có đảng viên là người dân tộc. Các địa phương có đông đồng bào Khmer đều bố trí cán bộ là người dân tộc Khmer giữ các chức danh chủ chốt.

Phó Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh Thạch Mu Ni cho hay, trình độ dân trí đồng bào Khmer tại Trà Vinh đã được nâng cao đáng kể. Đội ngũ cán bộ dân tộc Khmer ngày càng trưởng thành về số lượng và chất lượng. Toàn tỉnh hiện có 23.430 cán bộ, công chức, viên chức; trong đó người dân tộc Khmer chiếm gần 21%. Nhiều người dân tộc Khmer giữ các chức danh cán bộ chủ chốt của tỉnh, sở, ngành và các địa phương.

Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã giúp vùng đồng bào Khmer ngày càng khởi sắc; khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo ở vùng dân tộc, tôn giáo được giữ vững. Đồng bào các dân tộc trong tỉnh chung sức, đồng lòng cùng chính quyền địa phương xây dựng quê hương Trà Vinh ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Thanh Hòa

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm