Bài 2: Giúp người dân vùng khó tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản
Thuận tiện và đáp ứng đúng yếu tố văn hóa
Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế): Kết quả nghiên cứu ghi nhận hoạt động của các cô đỡ thôn bản và dịch vụ do họ cung cấp được cộng đồng chấp nhận, đánh giá cao do sự thuận tiện, gần gũi, đáp ứng đúng yếu tố văn hóa của đồng bào, đặc biệt là dịch vụ có chất lượng cao. Công việc của cô đỡ thôn bản tại địa phương có tác động lớn đối với cộng đồng, góp phần tăng cường nhận thức, thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân, giảm tai biến sản khoa, tử vong mẹ, tử vong trẻ sơ sinh tại cộng đồng. Đặc biệt đến nay, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em chưa nhận được báo cáo về tai biến trầm trọng đối với những ca đẻ có sự hỗ trợ của cô đỡ thôn bản. Sự chấp nhận của cộng đồng đối với cô đỡ thôn bản đã khẳng định nhu cầu thật sự đối với loại hình nhân viên y tế này.
Ở những thôn bản có cô đỡ, kiến thức và thực hành của phụ nữ dân tộc đã tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ phụ nữ biết cách chăm sóc thai nghén, phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm trong thời gian mang thai, sau sinh đã được cải thiện; tỷ lệ chấp nhận khám thai, đến đẻ tại cơ sở y tế hoặc đẻ tại nhà có sự hỗ trợ của cô đỡ thôn bản tăng lên. Phụ nữ có thai đã chủ động chăm sóc sức khỏe bản thân, đi khám thai, tiêm phòng uốn án, uống viên sắt… tại các cơ sở y tế.
Đồng thời, các chỉ số cơ bản như tỷ lệ phụ nữ có thai được quản lý, tỷ lệ khám thai và khám thai đủ 3 lần, tư vấn cho phụ nữ có thai, tỷ lệ đẻ tại cơ sở y tế/đẻ tại nhà có sự hỗ tợ của cô đỡ, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc sau sinh… tại các thôn bản đều cao hơn rất nhiều so với trước khi có cô đỡ. Bên cạnh đó, nhờ được phát hiện sớm để chuyển tuyến kịp thời, hàng nghìn ca chết mẹ và trẻ sơ sinh do tai biến thai nghén và chuyển dạ có nguy cơ cao đã được phòng tránh tại các thôn bản xa xôi, hẻo lánh ở vùng dân tộc, vùng núi cao.
Phát huy hiệu quả hoạt động của cô đỡ thôn bản
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến, đội ngũ cô đỡ thôn bản được đào tạo thực hành cầm tay chỉ việc đã phát huy hiệu quả tại cộng đồng, tránh được các tai biến sản khoa đáng tiếc. Đến nay, gần 3.000 cô đỡ thôn bản đang ngày đêm vượt mọi khó khăn, gian khổ đến từng hộ gia đình tuyên truyền, vận động người dân xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu; tư vấn, giáo dục sức khỏe; vận động sản phụ đi khám thai và sinh con tại trạm y tế xã; phát hiện thai nghén có nguy cơ để chuyển tuyến kịp thời… Để tiếp tục đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tại vùng đồng bào dân tộc, các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức quốc tế và toàn thể cộng đồng cần tiếp tục hỗ trợ ngành y tế nói riêng và các cô đỡ thôn bản nói chung để thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, cũng như công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng núi khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em kiến nghị: Việc duy trì và phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản sẽ góp phần giảm sự bất bình đẳng của người dân trong tiếp cận với dịch vụ y tế cơ bản; góp phần quan trọng vào việc giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh tại các vùng miền núi khó khăn của Việt Nam. Vì vậy, chính sách duy trì và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản cần được rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện để đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, cũng như tính khả thi nhằm tạo động lực để đội ngũ cô đỡ yên tâm học tập, nâng cao kỹ năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đối với đồng bào người dân tộc thiểu số. Họ cần được khẳng định là một loại hình nhân viên y tế phù hợp với các vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi người dân khó tiếp cận với hệ thống y tế tuyến xã do các khó khăn về địa lý và phong tục tập quán…
Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần tăng cường phối hợp với Bộ Y tế tiếp tục huy động nguồn lực từ các đối tác phát triển, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong việc đào tạo, sử dụng mạng lưới cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số; đẩy mạnh hoạt động truyền thông vận động, thông tin giáo dục truyền thông, chuyển tải các thông điệp đến cộng đồng về vai trò và hiệu quả của mạng lưới cô đỡ thôn bản. Sở Y tế các địa phương phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng và trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt đề án củng cố, phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó bao gồm cả việc xác định mức hỗ trợ hàng tháng, phương tiện, điều kiện làm việc. Đồng thời, Sở Y tế cần rà soát, xây dựng kế hoạch đào tạo, sử dụng cô đỡ thôn bản ở những thôn, bản đặc biệt khó khăn trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện. (Hết)
Thuận tiện và đáp ứng đúng yếu tố văn hóa
Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế): Kết quả nghiên cứu ghi nhận hoạt động của các cô đỡ thôn bản và dịch vụ do họ cung cấp được cộng đồng chấp nhận, đánh giá cao do sự thuận tiện, gần gũi, đáp ứng đúng yếu tố văn hóa của đồng bào, đặc biệt là dịch vụ có chất lượng cao. Công việc của cô đỡ thôn bản tại địa phương có tác động lớn đối với cộng đồng, góp phần tăng cường nhận thức, thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân, giảm tai biến sản khoa, tử vong mẹ, tử vong trẻ sơ sinh tại cộng đồng. Đặc biệt đến nay, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em chưa nhận được báo cáo về tai biến trầm trọng đối với những ca đẻ có sự hỗ trợ của cô đỡ thôn bản. Sự chấp nhận của cộng đồng đối với cô đỡ thôn bản đã khẳng định nhu cầu thật sự đối với loại hình nhân viên y tế này.
Cô đỡ thôn bản tuyên truyền, tư vấn chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho đồng bào dân tộc huyện Mang Yang (Gia Lai). Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN |
Ở những thôn bản có cô đỡ, kiến thức và thực hành của phụ nữ dân tộc đã tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ phụ nữ biết cách chăm sóc thai nghén, phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm trong thời gian mang thai, sau sinh đã được cải thiện; tỷ lệ chấp nhận khám thai, đến đẻ tại cơ sở y tế hoặc đẻ tại nhà có sự hỗ trợ của cô đỡ thôn bản tăng lên. Phụ nữ có thai đã chủ động chăm sóc sức khỏe bản thân, đi khám thai, tiêm phòng uốn án, uống viên sắt… tại các cơ sở y tế.
Đồng thời, các chỉ số cơ bản như tỷ lệ phụ nữ có thai được quản lý, tỷ lệ khám thai và khám thai đủ 3 lần, tư vấn cho phụ nữ có thai, tỷ lệ đẻ tại cơ sở y tế/đẻ tại nhà có sự hỗ tợ của cô đỡ, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc sau sinh… tại các thôn bản đều cao hơn rất nhiều so với trước khi có cô đỡ. Bên cạnh đó, nhờ được phát hiện sớm để chuyển tuyến kịp thời, hàng nghìn ca chết mẹ và trẻ sơ sinh do tai biến thai nghén và chuyển dạ có nguy cơ cao đã được phòng tránh tại các thôn bản xa xôi, hẻo lánh ở vùng dân tộc, vùng núi cao.
Phát huy hiệu quả hoạt động của cô đỡ thôn bản
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến, đội ngũ cô đỡ thôn bản được đào tạo thực hành cầm tay chỉ việc đã phát huy hiệu quả tại cộng đồng, tránh được các tai biến sản khoa đáng tiếc. Đến nay, gần 3.000 cô đỡ thôn bản đang ngày đêm vượt mọi khó khăn, gian khổ đến từng hộ gia đình tuyên truyền, vận động người dân xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu; tư vấn, giáo dục sức khỏe; vận động sản phụ đi khám thai và sinh con tại trạm y tế xã; phát hiện thai nghén có nguy cơ để chuyển tuyến kịp thời… Để tiếp tục đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tại vùng đồng bào dân tộc, các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức quốc tế và toàn thể cộng đồng cần tiếp tục hỗ trợ ngành y tế nói riêng và các cô đỡ thôn bản nói chung để thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, cũng như công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng núi khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
Cô đỡ thôn bản chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho đồng bào dân tộc huyện Mang Yang (Gia Lai). Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN |
Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em kiến nghị: Việc duy trì và phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản sẽ góp phần giảm sự bất bình đẳng của người dân trong tiếp cận với dịch vụ y tế cơ bản; góp phần quan trọng vào việc giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh tại các vùng miền núi khó khăn của Việt Nam. Vì vậy, chính sách duy trì và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản cần được rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện để đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, cũng như tính khả thi nhằm tạo động lực để đội ngũ cô đỡ yên tâm học tập, nâng cao kỹ năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đối với đồng bào người dân tộc thiểu số. Họ cần được khẳng định là một loại hình nhân viên y tế phù hợp với các vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi người dân khó tiếp cận với hệ thống y tế tuyến xã do các khó khăn về địa lý và phong tục tập quán…
Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần tăng cường phối hợp với Bộ Y tế tiếp tục huy động nguồn lực từ các đối tác phát triển, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong việc đào tạo, sử dụng mạng lưới cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số; đẩy mạnh hoạt động truyền thông vận động, thông tin giáo dục truyền thông, chuyển tải các thông điệp đến cộng đồng về vai trò và hiệu quả của mạng lưới cô đỡ thôn bản. Sở Y tế các địa phương phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng và trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt đề án củng cố, phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó bao gồm cả việc xác định mức hỗ trợ hàng tháng, phương tiện, điều kiện làm việc. Đồng thời, Sở Y tế cần rà soát, xây dựng kế hoạch đào tạo, sử dụng cô đỡ thôn bản ở những thôn, bản đặc biệt khó khăn trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện. (Hết)
Thu Phương
(TTXVN)