Di tích văn hóa Chăm ở Phong Nha – Kẻ Bàng

Di tích văn hóa Chăm ở Phong Nha – Kẻ Bàng
Trong Bản tin Lịch sử Địa lý lịch sử và mô tả (Bulletin de Géographie Historique et Descriptive) của Thư viện Quốc gia Pháp xuất bản năm 1897 cho biết, người phương Tây đến động Phong Nha (tỉnh Quảng Bình) đầu tiên là những cha cố người Pháp đang làm mục vụ tại vùng Troóc - Phong Nha - Cù Lạc.

Trong một bức thư của cha Bonin gửi cho cha Lesserteur viết: “Từ khi tôi thấy hang động đầu tiên cho đến bây giờ, tôi đã nhận thấy một sự thay đổi đáng ghi nhận. Trong vòng 10 năm, các vú đá đã lớn gấp đôi và nhiều vú đá mới đã hình thành. Lòng khe nước (vì hang động này thật ra chỉ là một khe nước ngầm) đã trở nên nguy hiểm và khó leo trèo. Ở đây, một vực thẳm không đáy là ở một bên cạnh bạn và bạn bước đi trên một sườn dốc đứng và trên lớp sỏi trơn trượt; ở đó nước đã khoét những hốc dưới đất và bạn bị ngăn cách với vực thẳm chỉ bằng một lớp đá mỏng đang hình thành, giống như thạch cao cứng hoặc vôi vữa cũ”.

Sau đó, trong một ghi chép được đọc tại Hội Hàn lâm Đông Dương (Société académique Indo-chinoise), cha xứ Lesserteur cho biết, trước đó cha xứ Frichot đã đến Phong Nha để can các bản văn tự khắc đá trong hang và đã lấy được 15 bản sao từ 15 vị trí khác nhau. Những bản sao này được in nguyên cảo trong nghiên cứu của hầu tước Crozier và tạp chí Pháp về ngoại quốc và thuộc địa (Revue Francaise de estranger et des colonies) ngày 11 tháng 11 năm 1885.

Như vậy, có thể thấy người Pháp đã đến Phong Nha rất sớm, từ giữa thế kỷ XIX. Đến cuối thế kỷ XIX, khoảng năm 1895 ông Camille Paris được Chính phủ Pháp cử đi thực hiện nhiệm vụ khoa học ở Việt Nam đã có chuyến khảo sát vùng núi Phong Nha - Kẻ Bàng và đã có báo cáo “Lộ trình ở Quảng Bình phía bắc Đồng Hới” đăng trong Bản tin Lịch sử địa lý và mô tả năm 1897.

Trong bài viết của ông C. Paris, ngoài việc mô tả những khó khăn trong cuộc thám sát, điều đáng chú ý là ông đã tập trung tìm kiếm những di sản văn hóa của người Chăm trong động Phong Nha. Ngay trong cửa động, C. Paris viết: “Bên phải lối vào, người Chàm (Chăm) đã dựng lên một phần tảng đá một bàn thờ bằng gạch, được người An Nam đã tô trát lại sau đó. Bàn thờ ngày xưa có dựng một tượng đá, chân bắt chéo, có môt chữ vạn (swastika) trên ngực, tóc che gáy. Người dân Phong Gia nói rằng lính Pháp đã lật bức tượng xuống sông. Tôi đã cho người lặn tìm nhưng không thấy”.
 
Cửa động Phong Nha.
Cửa động Phong Nha. 

Đi tìm dấu tích văn tự Chăm mà cha Frichot đã sao chép trước đây, những người chèo thuyền đã đưa C. Paris vào sâu trong hang, ông viết: “Sau vài phút tìm trên vách động, tôi nhìn thấy những văn tự thật sự phần nào đáp ứng các tiền khái niệm mà tôi đã mường tượng về chữ viết Chàm vốn đã chạm khắc tỉ mỉ lên các bia đá ở các tỉnh miền Nam... Các văn tự này được đưa vào các mặt lõm và chạy trên bề mặt một chút phẳng để viền các khuôn đúc từ phần nổi này sang phần nổi khác, trong tất cả các hướng và để ngoài tầm tay. Các văn tự hầu như dang dở hoặc chồng chéo, vụng về không theo một trật tự và hình dạng nào, như thể được viết vội vã, không chút tham vọng được khắc trên đá. Tôi bị thuyết phục khi nhận thấy rằng phần đá đầy các nét vẽ nguệch ngoạc được phủ một chất trầm tích mềm, bị bóc ra khi ấn ngón tay vào. Tôi cũng nhận thấy rằng chỗ tiếp nối các nhóm văn tự khắc đá tương ứng với các phần vách đá đã cứng và không có trầm tích”.

Công việc in dập các bản văn tự này hết sức khó khăn, đầu tiên ông thử phủ các chỗ trũng bằng mực tàu, sau đó in lại bằng giấy can, nhưng do mực bị pha loãng khi mặt giấy tiếp xúc với vách đá nên các bản dập không được như ý muốn. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của cha Cadiere, họ tô đen từng ký tự rồi dập từng bản một. Khi các ký tự khắc trên đá đã được tô mực, họ đồ lại trên giấy Nhật một cách tỉ mỉ và chính xác.

Để có thể đồ lại được các văn bản, họ phải đứng trong một tư thế chông chênh không vững chắc, hoặc phải ngồi xổm, phải nằm nghiêng hoặc có lúc phải treo mình trên trần hang suýt rơi xuống vực thẳm. C. Paris cho biết, ông đã làm việc suốt trong 9 ngày, mỗi ngày làm việc từ 8 giờ sáng đến tận đêm dưới ánh sáng lập lòe và um tùm khói của những ngọn đuốc. Các ông đã in dập được 97 văn tự khắc đá trong hang Phong Nha bao gồm 162 trang.

Trong báo cáo của mình, ông đã vẽ lại sơ đồ vị trí các bản văn tự được đánh số từ 1 đến 97 trong hang khảo sát (Hang Bi Ký). Ông cho biết, các bản văn tự từ 1 đến 7 được thấy ở phần trên các măng đá mà phần lớn đã chạm vú đá tạo thành các cột nhũ đá ghép. Từ số 8 đến 59, các văn tự được khắc theo hàng trên một vách tối đang chuyển thành trong suốt. Từ số 60 đến 67, các văn tự hiện rõ ràng trên nền trầm tích trắng. Từ số 68 đến 73, các văn tự co cụm lại trong một lỗ bên thành hang. Các số từ 74 đến 82 được viết bằng màu đen trên một nền cứng. Từ số 95 đến 97 tách biệt khá rõ trên vách đối diện. Ông nhận xét: “Sự khác biệt trong cách viết chứng tỏ chữ viết đã tồn tại trên lớp phủ vách động vào thời đó và cả bây giờ”.

Trong quá trình tìm các bản văn tự Chăm, C. Paris đã đào bới lớp đất tích tụ trong các đài bán nguyệt nhỏ được hình thành bởi nước trên mặt đất, ông tìm thấy 3 bức tượng nhỏ bằng đất, đáp ứng khá tốt với dấu hiệu nhận dạng của tượng bị ném xuống sông trước đó. C. Paris viết: “Người dân nói rằng bức tượng bị ném xuống nước vốn được mang từ trong hang có văn tự khó đọc, và rằng những người tổ tiên ấy đã mang bức tượng đặt ở lối vào để tránh phải di chuyển dưới lòng đất lúc làm lễ tế” . C. Paris cũng đã tìm thấy một mẫu đất sét có văn tự còn giữ được tính mềm mại nguyên thủy và phải có hai ngày phơi ngoài trời để làm cho chúng cứng lại. Nhận xét về loại gạch làm đền thờ trong hang ông cho rằng: “Gạch ở đây tương tự gạch ở các tháp miền Nam... Nhưng khi xem xét bàn thờ ở lối vào đúng theo kiểu kiến trúc Chàm và các viên gạch của bàn thờ trong động vẫn còn chúng tôi có thể cho rằng người Chàm đã làm hai bức tượng, một tượng đặt ở lối vào cửa động và tượng kia đặt trong động và rằng bức tượng thứ nhất đã chịu số phận như bức tượng thứ hai”.

Cùng với việc thám sát động Phong Nha, ông C.Paris đã khảo sát thêm vùng Troóc và hang động vùng Lạc Sơn, Thiết Sơn (Tuyên Hóa). Ở Lạc Sơn, ông phát hiện thấy bàn thờ của người Chàm và 32 văn tự được khắc trên vách đá. Xuôi về làng Trung Ái (Quảng Trạch), ông phát hiện trên gò đất có một ngôi miếu và trong đó có hai bức tượng cụt tay góc Chàm; trong đó một bức vẫn còn trên bệ tượng.

Chuyến thám sát của nhà khoa học Pháp Camille Paris đến vùng bắc Đồng Hới, đặc biệt là động Phong Nha cuối thế kỷ XIX đã cho thấy những điểm sáng về phần đất nguyên sơ của người Chăm (Chàm) trên đất Quảng Bình.

Sang đầu thế kỷ XX, Tạp chí Extreme Asie số 34 năm 1929 có đăng bài Một cuộc du ngoạn ở  Phong Nha (Excursion aux Grottes de Phong Nha) của giáo sư P. Antoine kể về cuộc thám hiểm Phong Nha kéo dài 4 ngày đêm trong động. Theo P. Antoine, đây là lần thứ hai ông tới động Phong Nha. Lần trước, ông chỉ xem qua loa và chỉ mới đi vào được hai động bên ngoài theo bản đồ hướng dẫn của Madrolle và bản báo cáo của nhà thiên văn học người Anh, ông Barton tại sở Du lịch Huế.

Như vậy, trước chuyến thám hiểm lần hai này của P. Antoine đã có hai cuộc thám hiểm của người Pháp - ông Madrolle và của người Anh - ông Barton. Theo tài liệu sau này của ông Boufỉe cho biết thì ông Barton đã ở trong động suốt 14 ngày.

Trong bài viết của P. Antoine có những chi tiết đáng quan tâm. Trước hết là việc thờ cúng ở Phong Nha, P.Antoni viết: “Trong gian thứ nhất, ở bên phải, dưới vòm hang có ba cái bàn thờ nhỏ như thường thấy ở trong các chùa khác. Nhiều tàn hương và giấy bạc rải rác trên mặt đất chứng tỏ rằng những vị thần của động này được nhiều tín đồ thờ phụng cúng bái. Vả lại động Phong Nha cũng được dân chúng địa phương gọi là Chùa Hang. Ông từ giữ chùa ở cách đó 200 mét, trong một túp lều hẻo lánh giữa dãy đá hình bán nguyệt, trên hữu ngạn con sông”.

Cuộc thám hiểm của P.Antoni lúc bấy giờ hết sức khó khăn, vất vả. Họ phải đi bằng bè và dùng đến hàng trăm bó đuốc. Chỉ có thám hiểm ba gian hầm theo tuyến chúng ta đi du lịch ngày nay, họ phải mất 4 ngày đêm. Từ gian hầm số hai sang gian hầm số ba (theo cách gọi của P.Antoni) chỉ dài 400 mét mà họ phải trải qua 3 giờ đồng hồ và dùng hết 50 bó đuốc. Ở gian hầm Khắc Chữ (ngày nay ta gọi là hang Bi Ký), ông đã khảo sát khá kỹ và cũng như ông C. Paris, P. Antonie đã bắt gặp những chữ chàm được khắc trên đá ở một khe khá sâu không lối thoát. Tuy đã cố gắng tìm con đường thoát để tiếp tục cuộc du ngoạn nhưng cuối cùng họ chỉ có lối thoát duy nhất là quay lại theo hướng đông nam để ra cửa hang.

Tháng 5 năm 1929, ông M. Bouffier cùng các ông Charly, Pasqualaggi tổ chức một cuộc thám hiểm khác nhằm mục đích “Tiếp tục cuộc thám hiểm trước chúng tôi đã đến nhưng phải dừng lại”. Theo Boufier, đoàn của ông không nghiên cứu sâu và chi tiết những điều đã được khám phá trước đây, mà chính là tìm ra nguồn gốc con suối từ trong động chảy ra bằng cách theo con suối đó cho đến tận cùng để “cố gắng chứng minh giả thiết – có nhiều khả năng đúng đắn – cho rằng có một khúc suối lộ thiên nối liền với khúc suối ngầm trong động”, đó là con suối có tên là Rào Te nằm ở phía tây nam được ghi trên bản đồ hay không?
Cuộc thám hiểm của Buofier chỉ kéo dài trong 3 ngày nhưng phương tiện chuẩn bị khá đầy đủ. Đoàn của ông đi bằng hai thuyền độc mộc chở đầy các bó đuốc, 6 hộp các buya cung cấp chất đốt cho 3 cây đèn đất, nửa tá bao sáp, hai đèn bão thắp bằng dầu hỏa, 2 ngọn đèn điện, 1 chạy bằng máy điện, 1 chạy bằng pin (có 6 cặp pin dự trữ, mỗi cặp dùng trong 10 giờ). Đoàn của Boufier tiến vào sâu hơn lộ trình của P. Antone, theo như bản báo cáo thì ông đã vào hang số 4, nghe tiếng reo của một ngọn thác và đột ngột chảy xuống một ngọn suối. Ở đây họ gặp những cành cây trôi dạt nghi ngờ  sự nối thông với một dòng suối lộ thiên bên ngoài nhưng họ cũng không thể đi đến ngọn nguồn.

Ngày nay, với việc khảo sát của Hội Hang động Hoàng Gia Anh, thì việc chứng minh sông ngầm trong động Phong Nha là một hệ thống sông ngầm được nối thông với hệ thống sông suối lộ thiên là điều hiển nhiên, nhưng công việc của đoàn thám hiểm Boufier tại thời điểm đó là một cố gắng lớn.

Ngoài Phong Nha, nhiều nhà thám hiểm cũng đã thám sát một số hang động trong dãy núi đá vôi Kẻ Bàng. Đáng chú ý là cuộc thám hiểm Hang Đen (Trou Noir) , nay gọi là Hang Tối của E. Suluy. Theo mô tả của Suluy thì Hang Tối là một hang động đầy bí ẩn, vì thế, ngày nay trong việc khai thác tuyến du lịch này những người quản lý du lịch ở Phong Nha – Kẻ Bàng cần phải có sự khảo sát thận trọng.

Những cuộc thám sát, nghiên cứu hang động  của các nhà khoa học phương Tây giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cho chúng ta thấy không những về cảnh quan, kiến tạo địa chất lúc bấy giờ mà còn có các dấu tích văn hóa Chăm và phong tục, tập quán của cư dân bản địa. Đó là những tư liệu quý để hoạch định một chiến lược bảo tồn, phát huy hiệu quả một cách bền vững của Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng.
Theo baoquangbinh.vn

Có thể bạn quan tâm

Khơi mạch nguồn tranh dân gian Làng Sình

Khơi mạch nguồn tranh dân gian Làng Sình

Từ khởi nguồn là loại tranh dùng để thờ cúng trong dân gian từ hơn 400 năm trước, tranh dân gian Làng Sình trải qua nhiều thăng trầm, đến nay vẫn có sức sống, chậm rãi hòa vào dòng chảy văn hóa dân gian vùng đất Huế.

Phát huy giá trị văn hóa Chăm Pa trên vùng đất Phú Yên

Phát huy giá trị văn hóa Chăm Pa trên vùng đất Phú Yên

Phù điêu Kala Núi Bà (Phú Yên) thuộc nền văn hóa Chăm Pa là một trong 33 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia theo Quyết định số 1712/QĐ-TTG ngày 31/12/2024. Để phát huy những giá trị văn hóa lịch sử này, tỉnh đã tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá; đồng thời tiếp tục nghiên cứu các hiện vật khác nhằm lưu giữ, tôn vinh giá trị văn hóa Chăm Pa trong dòng chảy lịch sử địa phương.

Các hoạt động tháng 4 với chủ đề “Sắc màu văn hoá các dân tộc Việt Nam” tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Các hoạt động tháng 4 với chủ đề “Sắc màu văn hoá các dân tộc Việt Nam” tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Từ ngày 1/4 đến ngày 4/5, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra các hoạt động tháng 4 với chủ đề “Sắc màu văn hoá các dân tộc Việt Nam”. Các sự kiện văn hóa góp phần hưởng ứng tôn vinh Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4). Qua đó giới thiệu nét văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc tại “Ngôi nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, góp phần quảng bá, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc, tăng cường giao lưu giữa các dân tộc, đa dạng phong phú các hoạt động thu hút khách du lịch trong dịp nghỉ lễ.

Khánh thành nhà rông thôn Kon Leang

Khánh thành nhà rông thôn Kon Leang

Chiều 30/3, Công đoàn Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum) tổ chức Lễ khánh thành nhà rông thôn Kon Leang (thị trấn Măng Đen).

Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong trường học

Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong trường học

Nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, những năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk đã tích cực phối hợp cùng ngành Văn hóa triển khai nhiều chương trình, giải pháp với các hoạt động đa dạng, phong phú, mang đến cho học sinh nhiều kiến thức về nét đẹp truyền thống, giúp các em biết trân trọng, giữ gìn và lan tỏa.

Phú Thọ sẽ có tháp Hùng Vương

Phú Thọ sẽ có tháp Hùng Vương

Tháp Hùng Vương là 1 trong 6 nhóm dự án quan trọng trong Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Đền Hùng của tỉnh Phú Thọ đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Ngày nay "Hầm bí mật in tài liệu của Ban Tuyên Huấn Hoa Vận" là di tích lịch sử thu hút du khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm tại thành phố Hồ Chí Minh.

"Địa chỉ đỏ" in báo cách mạng giữa lòng Sài Gòn

Trong kháng chiến chống Mỹ, hầm bí mật đặt tại ngôi nhà số 341/10 Gia Phú (quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) là nơi Ban Tuyên Huấn Hoa Vận in ấn tài liệu, Bản tin giải phóng tiếng Hoa của Ban Tuyên huấn Hoa vận, Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định... với nhiều bài báo yêu nước, kêu gọi nhân dân xuống đường tranh đấu, ủng hộ cách mạng. Ngày nay, hầm in bí mật được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Khánh Hòa: Triển lãm 50 năm thành tựu và phát triển 1975 - 2025

Khánh Hòa: Triển lãm 50 năm thành tựu và phát triển 1975 - 2025

Chiều 25/3, tại thành phố Nha Trang, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa tổ chức triển lãm ảnh "Khánh Hòa - 50 năm thành tựu và phát triển", nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh Khánh Hòa (2/4/1975 - 2/4/2025) và 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025).

Trưng bày hơn 500 hiện vật chuyên đề “95 năm dưới cờ Đảng quang vinh”

Trưng bày hơn 500 hiện vật chuyên đề “95 năm dưới cờ Đảng quang vinh”

Chiều 25/3, tại Trung tâm Văn hóa Điện ảnh thành phố Huế, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Huế tổ chức khai mạc Trưng bày chuyên đề “95 năm dưới cờ Đảng quang vinh”, “Dấu ấn 50 năm - Huế vươn mình vào kỷ nguyên phát triển mới”, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng Huế (26/3/1975-26/3/2025).

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Nghệ nhân người Bahnar Kriêm ở thôn Hà Ri giữ gìn nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình. Ảnh: Lê Phước Ngọc - TTXVN

Cơ hội mới cho nghề dệt thổ cẩm Hà Ri ở Bình Định

Dệt thổ cẩm Hà Ri, thôn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định) vừa được UBND tỉnh Bình Định công nhận đạt chuẩn làng nghề theo quy định tại khoản 3, Điều 5 Nghị định số 52/2018-NĐ/CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn. Đây là tín hiệu vui và là “luồng sinh khí” mới giúp nghề dệt thổ cẩm tại địa phương vượt qua khó khăn, thách thức, nắm bắt cơ hội để duy trì bền vững, phát huy tối đa giá trị, bản sắc vốn có.

Những bước chân tri ân trên mảnh đất Vị Xuyên anh hùng

Những bước chân tri ân trên mảnh đất Vị Xuyên anh hùng

Ngày 22/3, Hiệp hội Du lịch tỉnh Hà Giang tổ chức chương trình trải nghiệm “Hành quân theo bước chân anh và Hành trình biên cương xanh” tại xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên. Chương trình thu hút hàng trăm cựu chiến binh, du khách từ nhiều tỉnh, thành phố và đoàn viên thanh niên. Tất cả khoác lên mình trang phục Bộ đội Cụ Hồ, cùng sống lại những ký ức hào hùng của một thời máu lửa, đồng thời thể hiện lòng tri ân với các Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất biên cương.

Nhà trình tường, di sản văn hóa người Mông ở Hà Giang

Nhà trình tường, di sản văn hóa người Mông ở Hà Giang

Những ngôi nhà trình tường với kiến trúc cổ truyền được coi là một nét văn hoá của người Mông ở vùng Cao nguyên đá ở Hà Giang. Theo quan niệm của họ, ngôi nhà trình tường truyền thống chính là thước đo đánh giá sự giàu có của mỗi gia đình, mỗi dòng họ, đây cũng là căn cứ để xác định đâu là người Mông cư trú lâu nhất vùng.

Thành phố Đà Lạt nhận 2 giải thưởng lớn trong Festival châu Á 2025

Thành phố Đà Lạt nhận 2 giải thưởng lớn trong Festival châu Á 2025

Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng), tối 20/3, tại Hội nghị thượng đỉnh Festival toàn cầu năm 2025 tổ chức tại Trung tâm hội nghị HICO ở Gyeongju (Hàn Quốc), thành phố Đà Lạt vinh dự nhận cùng lúc 2 giải thưởng Festival châu Á 2025.

Kỷ lục gia sưu tập kỷ vật người Hoa ở Việt Nam

Kỷ lục gia sưu tập kỷ vật người Hoa ở Việt Nam

Anh Dương Rạch Sanh, ngụ ở quận 5 đang giữ hơn 2.500 kỷ vật của người Hoa ở TP. HCM là người đang xác lập kỷ lục Việt Nam: "Người sở hữu bộ sưu tập kỷ vật của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1975 có số lượng nhiều nhất". Đây là bộ sưu tập lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc và mang dấu ấn quá trình hội nhập của cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn

 Khai hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam 2025

Khai hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam 2025

Tối 19/3, tại thành phố Châu Đốc, UBND tỉnh An Giang tổ chức Lễ đón Bằng UNESCO ghi danh “Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam” vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và khai hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2025.

Bảo tồn, phát huy giá trị kiến trúc truyền thống gắn với phát triển du lịch tỉnh Bắc Kạn

Bảo tồn, phát huy giá trị kiến trúc truyền thống gắn với phát triển du lịch tỉnh Bắc Kạn

Hiện nay, ở Bắc Kạn có gần 9.300 công trình kiến trúc nhà ở truyền thống của các dân tộc Tày, Dao, Nùng, trong đó có 8.681 nhà sàn, 8 nhà trình tường, 605 nhà đất. Việc huy động nguồn lực để bảo tồn giá trị văn hóa, kiến trúc nhà ở truyền thống của các dân tộc đang được các địa phương chú trọng nhằm phát huy tiềm năng phát triển du lịch ở Bắc Kạn.

Nhiều hoạt động văn hóa tại Bắc Kạn trong tháng 4/2025

Nhiều hoạt động văn hóa tại Bắc Kạn trong tháng 4/2025

Chiều 18/3, UBND tỉnh Bắc Kạn thông tin, từ ngày 6/4 đến ngày 30/4, tỉnh sẽ tổ chức chuỗi các sự kiện văn hóa, với điểm nhấn "Tuần Văn hóa - Du lịch Bắc Kạn năm 2025" có chủ đề "Sông Cầu - Nơi ngọn nguồn hội tụ", quy mô các tỉnh, thành phố lưu vực sông Cầu: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương và thành phố Hà Nội.

Triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa - Tổ quốc nơi đầu sóng"

Triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa - Tổ quốc nơi đầu sóng"

Tại quân cảng Cam Ranh, Bộ tư lệnh Vùng 4 Hải quân phối hợp với Cục Chính trị Hải quân, CLB phóng viên ảnh Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV tổ chức lễ khai mạc triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa – Tổ quốc nơi đầu sóng” và “Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng – 70 năm hành trình giữ biển”. Đây là hoạt động nhân dịp 50 năm giải phóng Quần đảo Trường sa (29/4/1975) và 70 năm thành lập Hải quân Nhân dân Việt Nam (7/5/1955).