Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu đến năm 2025, trồng tái canh và ghép cải tạo khoảng 107.000 ha cà phê; trong đó, trồng tái canh 75.000 ha, ghép cải tạo 32.000 ha.
Theo đó, năng suất vườn cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo ở thời kỳ kinh doanh ổn định đạt bình quân 3,5 tấn nhân/ha. Thu nhập/ha cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo tăng 1,5 - 2 lần so với trước khi tái canh.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại 5 tỉnh vùng Tây Nguyên, diện tích tái canh cà phê giai đoạn đến năm 2025 khoảng 91.000 ha; trong đó trồng tái canh 64.000 ha, ghép cải tạo 27.000 ha.
Lâm Đồng là tỉnh có diện tích tái canh lớn nhất với 36.000 ha, tiếp theo là Đắk Lắk 24.000 ha, Đắk Nông 18.000 ha, Gia Lai 11.000 ha, Kon Tum 2.000 ha.
Các tỉnh trồng cà phê khác như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu khoảng 16.000 ha, gồm trồng tái canh 11.000 ha và ghép cải tạo 5.000 ha.
Để đạt mục tiêu trên, UBND các tỉnh trên sẽ hoàn chỉnh kế hoạch trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê trên địa bàn; các tổ chức, cá nhân có nhu cầu trồng tái canh và ghép cải tạo vườn cà phê đăng ký kế hoạch với UBND cấp xã và liên hệ với ngân hàng để vay vốn tái canh cà phê.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giải pháp khoa học công nghệ được ưu tiên để nâng cao năng lực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê cho các đơn vị khoa học công nghệ thuộc Bộ và các địa phương. Cụ thể là ngành sẽ nghiên cứu, chọn tạo các giống cà phê mới thích hợp cho từng vùng sinh thái theo hướng năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, có khả năng cơ giới hóa khâu thu hoạch, rải vụ thu hoạch...
Ngành nông nghiệp cũng xây dựng hệ thống vườn giống đủ tiêu chuẩn tại các địa phương, đáp ứng đủ nhu cầu giống trồng tái canh và ghép cải tạo vườn cà phê. Cùng với đó là tăng cường thực hiện các giải pháp quản lý nhà nước về giống cà phê theo quy định của pháp luật để người trồng cà phê được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn, giá cả phù hợp.
Ngành nông nghiệp rà soát, hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê phù hợp với từng vùng sinh thái, nâng cao tỷ lệ diện tích trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê thành công; từng bước nhân rộng diện tích cà phê theo mô hình cảnh quan, phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Các đơn vị, địa phương tuyên truyền, chuyển giao quy trình kỹ thuật trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê cho người sản xuất.
Các chính sách hỗ trợ tái canh cà phê bao gồm: tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ phát triển sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp; hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất.
Các địa phương, doanh nghiệp có thể ban hành các chính sách mới như: gói tín dụng hỗ trợ tái canh cà phê; hỗ trợ đo đạc, lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân trồng tái canh cà phê; hỗ trợ cây giống, chồi giống trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ thúc đẩy các biện pháp hợp tác với Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế khác để hỗ trợ vay vốn ODA thực hiện trồng tái canh và ghép cải tạo cà phê với lãi suất thấp; tăng cường hợp tác công tư trong khâu trồng, chế biến, tiêu thụ cà phê.
Bích Hồng