Chàng sinh viên Khmer tiêu biểu vượt khó, học giỏi

Vượt khó học giỏi, sinh viênThạch Hữu Nhân 4 lần đoạt giải thưởng Lương Định Của, 4 học bổng dành cho sinh viên xuất sắc của trường Đại học Cần Thơ... Ảnh: Thu Hiền - TTXVN
Vượt khó học giỏi, sinh viênThạch Hữu Nhân 4 lần đoạt giải thưởng Lương Định Của, 4 học bổng dành cho sinh viên xuất sắc của trường Đại học Cần Thơ... Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Làm nhiều công việc khác nhau để kiếm tiền trang trải cuộc sống và lo chi phí học tập suốt gần 4 năm qua. Đó là hoàn cảnh của chàng sinh viên người Khmer Thạch Hữu Nhân (huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng) đang học năm cuối ngành Xã hội học, khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ. Dù phải vừa học vừa làm nhưng Hữu Nhân luôn đạt thành tích học tập xuất sắc và đạt nhiều học bổng.

Chàng sinh viên Khmer tiêu biểu vượt khó, học giỏi ảnh 1Vượt khó học giỏi, sinh viên Thạch Hữu Nhân 4 lần đoạt giải thưởng Lương Định Của, 4 học bổng dành cho sinh viên xuất sắc của trường Đại học Cần Thơ... Ảnh: Thu Hiền - TTXVN


Làm thêm nhiều việc để có tiền ăn học

Tiếp chúng tôi tại khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Thạch Hữu Nhân cho biết, đây vừa là nơi ở "ké" vừa là chỗ làm thêm của Hữu Nhân. Vì hoàn cảnh khó khăn, để tiết kiệm chi phí, Hữu Nhân xin làm thêm công việc bảo vệ tại Khoa.

Hiện đã bước vào năm cuối nên Hữu Nhân hạn chế làm thêm, tập trung học tập để tốt nghiệp với mục tiêu dành được tấm bằng loại giỏi. Do đó, ngoài làm bảo vệ Khoa, chạy các công việc giấy tờ cho thầy cô, Hữu Nhân chỉ làm thêm công việc tại quán trà sữa vào buổi tối. Với số tiền kiếm được, Hữu Nhân chi tiêu tiết kiệm và đóng học phí.

Đi đến chặng đường năm thứ 4 trên giảng đường đại học với Hữu Nhân là ngần đó quãng thời gian nỗ lực, cố gắng rất lớn của bản thân.

Ngay từ năm đầu đại học, Hữu Nhân ở ký túc xá và đi phụ bán quán cà phê, nhưng vì đi làm về khuya nên quá giờ giới nghiêm không được vào ký túc xá. Do đó, sang năm học thứ 2, Nhân bán đi chiếc xe máy cũ (mua được từ tiền nhận học bổng) để hùn vốn cùng bạn mở xe bán bánh tráng nướng và sinh tố, mỗi ngày kiếm được 100.000 đồng.

Công việc bán bánh tráng nướng đem lại thu nhập khá, lại phù hợp với lịch học, giúp Hữu Nhân có chi phí chi tiêu và còn tiết kiệm gửi về cho ba mẹ. Nhưng bán được gần 2 năm, dịch bệnh xảy ra nên Hữu Nhân nghỉ, chuyển sang phụ bán trà sữa.

Tự bươn chải mưu sinh, nhưng trên gương mặt Hữu Nhân luôn thường trực nụ cười, với ánh mắt tràn đầy sự háo hức. Hữu Nhân cho hay, dù phải chật vật tự lo cho bản thân, nhưng với Nhân, đó là thử thách để em vượt qua.

"Từ năm học lớp 3, cha mẹ lên Thành phố Hồ Chí Minh làm thuê, em ở nhà với bà nội. Do gia đình nghèo, không có ruộng đất nên 4 chị em đi mò cua, bắt ốc, hái rau... đem ra chợ bán từ 3 giờ sáng kiếm tiền phụ bà mua gạo. Từ năm lớp 6 đến lớp 12, em chưa khi nào xin tiền cha mẹ vì em học nội trú, được trường hỗ trợ tiền ăn, tiền học. Từ năm lớp 8 đến lớp 12, cứ mỗi mùa hè, em lên Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, làm thuê kiếm tiền mua thêm sách vở. Vì thế, em đã quen với việc tự lo cho mình", Hữu Nhân chia sẻ.

Vì quen với vất vả, tự lập nên khi gia đình khuyên nghỉ học, Hữu Nhân vẫn nghe theo lời thầy, cô dạy bảo, tiếp tục theo đuổi ước mơ học tập, bởi chỉ có con đường học tập mới đi đến thành công. Do đó, Hữu Nhân quyết tâm bước vào giảng đường đại học bằng nhiều việc làm thêm để nuôi giấc mơ của mình.

Tấm gương tiêu biểu

Mặc dù làm nhiều việc để có chi phí trang trải cuộc sống, nhưng thành tích học tập của Hữu Nhân không bị giảm sút. Ba năm học đại học, trừ năm đầu đạt loại khá, còn lại lớp trưởng lớp Xã hội học K44, khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ, luôn đạt thành tích xuất sắc và được nhận nhiều học bổng như: Giải thưởng Lương Định Của, sinh viên xuất sắc của Đại học Cần Thơ...

Hữu Nhân cho biết, em không dành quá nhiều thời gian cho việc học bài, mà chỉ tập trung lắng nghe thầy, cô giảng bài rồi đem bài học đó áp dụng vào thực tế để dễ hiểu, dễ nhớ. Ví dụ: Trong chuyên ngành Xã hội học, thầy cô sẽ dạy cách giao tiếp, tiếp cận với một đối tượng cụ thể nào đó. Thay vì em phải tưởng tượng và học bài theo lý thuyết, thì trong quá trình làm thêm em sẽ vận dụng luôn. Việc làm thêm cũng hỗ trợ em trong quá trình học tập để có thể phát biểu, đưa ra ý kiến từ thực tế cuộc sống.

Chọn học ngành Xã hội học và thấy thú vị với ngành học, nhưng chàng trai Khmer lại có ý định theo đuổi đam mê kinh doanh. Dự định của Nhân, sau khi ra trường sẽ làm công việc tiếp thị sản phẩm để tìm hiểu thị trường, tìm kiếm kinh nghiệm cho những dự định lâu dài.

"Có người hỏi em đam mê kinh doanh vì sao lại chọn học Xã hội học. Em nghĩ môn Xã hội học cũng giúp cho em rất nhiều trong kinh doanh như kỹ năng giao tiếp, có góc nhìn đa chiều, nhận biết nhu cầu xã hội... Sau này, em theo đuổi kinh doanh nhưng vẫn muốn một lúc nào đó sẽ làm người truyền cảm hứng cho các thế hệ sau có động lực vượt khó khăn, kiên trì với con đường học tập như em đã trải qua", Hữu Nhân bộc bạch.

Nhắc đến sinh viên Thạch Hữu Nhân, thầy giáo Hứa Hồng Hiểu, Cố vấn học tập lớp Xã hội học K44 đã dành nhiều lời khen ngợi. Thầy Hứa Hồng Hiếu cho biết, thầy rất ấn tượng với sinh viên Thạch Hữu Nhân là sự đam mê học tập, khả năng tiếp thu kiến thức, nắm bắt nội dung bài học nhanh nhạy. Hữu Nhân vừa là sinh viên nổi trội của lớp về thành tích học tập, đồng thời là lớp trưởng năng nổ, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hữu Nhân là cầu nối giữa các bạn trong lớp với giảng viên.

Còn với các bạn sinh viên, Thạch Hữu Nhân là chàng trai luôn nhiệt huyết vì mọi người, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn.

Cựu sinh viên Đại học Cần Thơ Nguyễn Thanh Duy cho biết, Hữu Nhân là một chàng trai luôn nhiệt tình giúp đỡ người khác. Dù bận rộn với mục tiêu học tập, công việc làm thêm, nhưng Hữu Nhân vẫn dành thời gian cho cộng đồng trong suốt những năm tháng sinh viên. Đặc biệt, từ khi dịch bệnh bùng phát đến nay, Nhân tham gia các nhóm thiện nguyện, nấu cơm hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn, nhất là sinh viên trong khu phong tỏa, sinh viên nước ngoài; tham gia phát quà cho gia đình nghèo...

“Thạch Hữu Nhân là tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ đầy nghị lực, luôn tìm cách vượt qua khó khăn, để theo đuổi đam mê, ước mơ của mình”, cựu sinh viên Đại học Cần Thơ Nguyễn Thanh Duy nhấn mạnh.

Thu Hiền

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm