Lai Châu nỗ lực thực hiện giảm nghèo bền vững

Lai Châu nỗ lực thực hiện giảm nghèo bền vững
Bà con xã Trung Đồng (Lai Châu) chăm sóc, bảo vệ rừng để hưởng lợi từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: Việt Hoàng - TTXVN
Bà con xã Trung Đồng (Lai Châu) chăm sóc, bảo vệ rừng để hưởng lợi từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: Việt Hoàng - TTXVN
Để giúp đồng bào nghèo có điều kiện phát triển kinh tế, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28/6/2016 về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Theo đó, tỉnh Lai Châu triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới, tái cơ cấu nông nghiệp. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp để người dân có thể sống bằng nghề rừng và sản phẩm khai thác từ rừng thông qua công tác khoán, bảo vệ rừng. Từ năm 2016 - 2018, tỉnh Lai Châu đã hỗ trợ 53.000 lượt hộ về giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với tổng kinh phí hơn 86 tỷ đồng; hỗ trợ trên 72.000 lượt hộ nhận giao khoán chăm sóc, bảo vệ trên 296 nghìn lượt ha rừng. Thực hiện hỗ trợ khai hoang 32,3 ha; nhân rộng 22 mô hình giảm nghèo trên địa bàn các huyện, thành phố... Ngoài ra, đã có 36 nghìn hộ nghèo, cận nghèo, hộ chính sách khác được vay vốn phát triển sản xuất, từ đó nhiều hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Ông Giàng A Tính, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết: Thực hiện Nghị quyết 02, UBND tỉnh tập trung nhiều nguồn lực đầu tư cho huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao như: Mường Tè, Nậm Nhùn, Sìn Hồ, các xã biên giới, các dân tộc đặc biệt khó khăn. Địa phương đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác giảm nghèo, tạo thành phong trào sâu rộng, thu hút, động viên sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện giảm nghèo, hỗ trợ giúp đỡ người nghèo. Ngoài nguồn vốn từ các chương trình, dự án Trung ương, tỉnh tranh thủ nguồn vốn từ tổ chức, cá nhân, tập đoàn, doanh nghiệp... để thực hiện công tác giảm nghèo. Theo ông Giàng A Tính, nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao, đối tượng hỗ trợ lớn trong khi ngân sách hỗ trợ hạn hẹp (chỉ đáp ứng một phần nhu cầu thực tế) là: Số hộ nghèo chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ hạn chế, tập quán canh tác lạc hậu, vẫn còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Cùng với đó là việc thiếu đất sản xuất, thiếu phương tiện sản xuất, lao động không có việc làm... Nhằm giải quyết việc làm, tỉnh Lai Châu chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn với hình thức tăng cường liên kết các đơn vị, tổ chức đào tạo nhiều ngành, nghề như: Trồng trọt, cắt may, chăn nuôi, hàn, điện dân dụng, dệt thổ cẩm… Ngoài ra, tỉnh quan tâm hỗ trợ cơ sở sản xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo vay vốn để giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Đến cuối tháng 11/2018, tỉnh đã giải quyết việc làm cho gần 21 nghìn lao động, xuất khẩu lao động 276 người. Từ nhiều nguồn vốn khác nhau, giai đoạn 2016 - 2018, tỉnh đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng ở các huyện, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, giải quyết các thiếu hụt về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch vệ sinh môi trường, thông tin truyền thông để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cho hộ nghèo. Trong đó, đầu tư, sửa chữa nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn, công trình thủy lợi, cơ sở vật chất trường lớp học, trạm y tế, xây dựng nhà văn hóa, trạm phát sóng FM. Tính từ năm 2016, tỉnh Lai Châu có đến 6/8 huyện, thành phố thuộc huyện nghèo, 75 xã và 617 bản đặc biệt khó khăn; trên 36.094 hộ nghèo, 8.982 hộ cận nghèo. Một số địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 90% như: Bum Tở 94,8%, Pa Vệ Sủ 94% của huyện Mường Tè. Số hộ nghèo khu vực thành thị chiếm tỷ lệ 9,68% như: Thị trấn Tân Uyên 34,38%, thị trấn Nậm Nhùn 15,18%, thị trấn Sìn Hồ 14%. Bên cạnh đó, một số mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo trên địa bàn tỉnh chiếm khá cao với 36.094 hộ nghèo với mức độ thiếu hụt dịch vụ như: nhà tiêu hợp vệ sinh (chiếm 70,54%), diện tích nhà ở (32,21%), chất lượng nhà ở (28,81%), trình độ giáo dục người lớn (27,21%), tài sản tiếp cận thông tin (24,58%)… Đến nay, toàn tỉnh có 96/96 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 1.030/1.169 thôn, bản có đường xe máy đi lại thuận lợi, 92% số hộ sử dụng điện lưới quốc gia. Về giáo dục: Giữ vững chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Có 71,3% số xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, 9,2% bác sỹ/1 vạn dân; hỗ trợ 973 nhà ở hộ nghèo; 100% xã được cung cấp nội dung thông tin về chính sách, pháp luật… Qua thực hiện Nghị quyết đã giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016-2018 là 4,95%/năm (riêng huyện nghèo giảm 5,7%/năm), hộ cận nghèo 0,08%/năm, trên 12 nghìn hộ thoát nghèo. Đến nay 2 huyện: Than Uyên, Tân Uyên đã ra khỏi huyện nghèo, 13 xã ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Những kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân; củng cố, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Việt Hoàng

Có thể bạn quan tâm