Trang phục truyền thống, nét văn hóa của người Lô Lô ở Mèo Vạc

Trang phục truyền thống, nét văn hóa của người Lô Lô ở Mèo Vạc

Đồng bào dân tộc Lô Lô ở huyện Mèo Vạc, Hà Giang hiện có khoảng hơn 200 hộ với gần 1 nghìn nhân khẩu sinh sống chủ yếu ở xã Xín Cái và thị trấn Mèo Vạc. Người Lô Lô nơi đây có bề dày lịch sử và tín ngưỡng, văn hóa dân gian độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc.

vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_cua_nguoi_lo_lo_7458376.jpg
Phụ nữ Lô Lô với bàn tay khéo léo thêu hoa văn trên trang phục truyền thống. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_cua_nguoi_lo_lo_7458396.jpg
Trang phục của phụ nữ Lô Lô Hoa ở thị trấn Mèo Vạc, Hà Giang. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_cua_nguoi_lo_lo_7458371.jpg
Phụ nữ Lô Lô rất chăm chỉ trong việc thêu vá trang phục. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_dac_sac_cua_nguoi_lo_lo_7458392.jpg
Trang phục người Lô Lô Đen ở xã Xín Cái, Mèo Vạc. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_dac_sac_cua_nguoi_lo_lo_7458381.jpg
Phụ nữ Lô Lô Đen ở xã Xín Cái, Mèo Vạc thêu vá trang phục. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_cua_nguoi_lo_lo_7458378.jpg
Phụ nữ Lô Lô với bàn tay khéo léo thêu hoa văn trên trang phục truyền thống. Ảnh: Trần Việt - TTXVN
vna_potal_trang_phuc_truyen_thong_-_net_van_hoa_dac_sac_cua_nguoi_lo_lo_7458380.jpg
Trang phục của người Lô Lô Đen ở xã Xín Cái, Mèo Vạc. Ảnh: Trần Việt - TTXVN

Những trang phục cầu kỳ từ quần, áo, khăn, mũ được làm từ thổ cẩm qua bàn tay khéo léo của người dân và các nghệ nhân đã làm nên những sản phẩm hết sức đặc sắc, đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào Lô Lô. Để hoàn thành bộ trang phục đẹp có thể phải làm đến cả năm, giá trị nhiều bộ đến cả chục triệu đồng. Trang phục truyền thống của dân tộc Lô Lô ngoài thể hiện những tinh hoa văn hóa từ lâu đời là niềm tự hào được kết tinh từ ngàn xưa còn thể hiện từ tâm hồn và cốt cách riêng của người Lô Lô sinh sống trên cao nguyên đá hàng trăm năm nay.

Trần Việt

(TTXVN)
Dân tộc Lô Lô Dân tộc Lô Lô

Tên tự gọi: Lô Lô.

Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.

Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.

Dân số: 4.541 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.

Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.

Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang).jpg
Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang)

: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).

Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.

Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.

Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.

Thờ cúng: Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.

Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng Bảy...

Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.

Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.

Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.

Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.

Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm