Quay lại
Thăm mường Chiềng Ngam

Thăm mường Chiềng Ngam

Từ hàng trăm năm về trước, người Thái đã định cư trên vùng đất này và lập nên mường ca mình ở Ching Ngam, nay thuc xã Châu Tiến và mt phn ca Châu Bính huyn Qu Châu. Ngoài văn hóa lúa nước đc sắc, người Thái Ching Ngam trng dâu, nuôi tm, dt th cẩm và lưu giữ văn hóa nhà sàn, tục uống rượu cn và nhng nét văn hóa khác khiến du khách v vi đt này vn có nhng ấn tượng tt đp.

Chiềng Ngam có nghĩa là một vùng đất đông vui và đẹp. Chiềng hay “chiếng” xưa kia là trung tâm của mường, vì thế mà đông vui. Ngam mang nghĩa là đẹp và là từ ngữ phổ biến trong tiếng Lào hơn nhưng người Thái vẫn dùng để đặt cho tên đất tên người với ý nghĩa trang trọng. Vùng đất này một mặt giáp với vùng rừng núi xã Châu Thuận gọi là Mường Chai. Mặt khác giáp xã Châu Thắng và con sông Nậm Giải như một ranh giới tự nhiên giữa Chiềng Ngam và huyện Quế Phong.

1. Một góc Mường Chiềng Ngam.jpg
Một góc Mường Chiềng Ngam nay thuộc xã Châu Tiến và một phần của Châu Bính, huyện Quỳ Châu.
9. Guồng nước cũng là một trong những điểm check in khi du khách về với mường Chiềng Ngam.JPG
Người mường Chiềng Ngam chủ yếu là cộng đồng Thái, hàng trăm năm canh tác lúa nước và là vùng vẫn duy trì những cọn nước tưới nước cho ruộng đồng. Các làng bản vì thế từ lâu không có tập quán du canh, du cư, mà tập trung phát triển được một vùng văn hóa khá đặc sắc với nếp sống bản địa được duy trì trong những nếp nhà sàn cổ kính.
2. một góc nhà sàn cổ.JPG
Một góc nếp nhà sàn cổ ở mường Chiềng Ngam

Người Thái trong vùng có câu hát thường được các nghệ nhân nhắc đến khi du khách đến thăm: “Mường Chiềng Ngam ăn cá ba sông”. Đó là các con sông nhỏ Nậm Giải, Nậm Hạt và Nậm Quàng, các chi lưu của sông Hiếu. Ba con sông đã bồi đắp nên những bãi phù sa rộng hàng trăm héc ta vì thế mà Chiềng Ngam trở thành nơi trồng lúa nước nhiều nhất ở huyện Quỳ Châu.

Người mường Chiềng Ngam chủ yếu là cộng đồng dân tộc Thái hàng trăm năm cấy lúa nước và là vùng vẫn duy trì những cọn nước tưới nước cho ruộng đồng. Các làng bản vì thế từ lâu không có tập quán du canh, du cư.

4. người già, nghệ nhân truyền dạy chữ Thái cho thế hệ sau.JPG
Từ những năm 2010, nơi này bắt đầu phát triển theo chủ trương phát triển du lịch cộng đồng của toàn tỉnh Nghệ An. Các nét văn hóa của người Chiềng Ngam trở thành thế mạnh để phát triển du lịch. Nghề dệt thổ cẩm, trồng dâu nuôi tằm được khôi phục. Chữ Lai Tay, một trong những hệ chữ viết từng được sử dụng trước đây được khôi phục và truyền dạy. Các làn điệu dân ca, nhạc cụ của người Thái cũng được chế tác, truyền dạy bởi các nghệ nhân.
5. lưu giữ những trang phục Thái cổ.JPG
Sưu tầm lưu giữ trang phục cổ. Trong ảnh là bộ trang phục của bà Nàng Hồng, vợ của ông Sầm Văn Viên - Tri Phủ Quỳ Châu cuối cùng.
10. Ở bản Hoa Tiến nghề dệt thổ cẩm đang được khôi phục và lưu giữ..JPG
Ngoài văn hóa lúa nước đặc sắc, người Thái ở Chiềng Ngam trồng dâu, nuôi tằm, dệt thổ cẩm và lưu giữ văn hóa nhà sàn, tục uống rượu cần và những nét văn hóa khác khiến du khách về với đất này vẫn có những ấn tượng tốt đẹp.

Các lễ hội như Hang Bua diễn ra vào đầu năm tháng giêng âm lịch, lễ Pủ Xừa vào tháng 9 âm lịch vẫn được duy trì đều đặn. Trong đó lễ Pủ Xừa là lễ cúng tâm linh đặc sắc. Vào ngày hội, người dân tập trung tại cây cổ thụ gọi là “pủ xừa” của mỗi bản để cúng thần linh, những người cai quản vùng đất để cầu bình an, mùa màng tươi tốt. Các làn điệu dân ca vẫn được duy trì trong ngày hội, ngày lễ, cưới xin… Trang phục truyền thống và tục uống rượu cần còn khá phổ biến.

Ở Bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến thuộc mường Chiềng Ngam xưa từng có dòng họ Sầm nhiều đời giữ chức Tri phủ Phủ Quỳ Châu. Chức danh được gọi là thổ tri phủ này bắt đầu từ thế kỷ 19 và được triều đình cho phép truyền vị trong dòng họ. Chữ viết của người Thái từng được dùng một cách khá phổ biến dưới thời phong kiến và Pháp thuộc.

Từ thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, nơi này bắt đầu phát triển du lịch trong chủ trương phát triển du lịch cộng đồng của toàn tỉnh Nghệ An. Các nét văn hóa của người Chiềng Ngam trở thành thế mạnh để phát triển du lịch. Nghề dệt thổ cẩm, trồng dâu nuôi tằm được khôi phục. Chữ Lai Tay, một trong những hệ chữ viết từng được sử dụng trước đây được khôi phục và truyền dạy. Các làn điệu dân ca, nhạc cụ của người Thái cũng được chế tác, truyền dạy bởi các nghệ nhân.

8. Lễ cúng pủ xừa của người Thái ở bản Bua, xã Châu Tiến - Ảnh Hữu Vi.JPG
Các lễ hội như Hang Bua diễn ra vào tháng Giêng, lễ Pủ Xừa vào tháng 9 âm lịch vẫn được duy trì đều đặn hàng năm. Trong đó, lễ Pủ Xừa là lễ cúng tâm linh đặc sắc. Vào ngày hội, người dân tập trung tại cây cổ thụ gọi là “pủ xừa” của mỗi bản để cúng thần linh, những người cai quản vùng đất để cầu bình an, mùa màng tươi tốt. Các làn điệu dân ca vẫn được duy trì trong ngày hội, ngày lễ, cưới xin… Trang phục truyền thống và tục uống rượu cần còn khá phổ biến.
11. thực khách thưởng thức ẩm thực của người Thái khi về Bản Hoa Tiến.JPG
Thực khách thưởng thức ẩm thực của người Thái khi về Bản Hoa Tiến

Ngày nay, đến với mường Chiêng Ngam, du khách thấy được một diện mạo đổi mới và những nét văn hóa cổ xưa vẫn được lưu giữ. Tiếng khèn, tiếng sáo, hội cồng chiêng vẫn vang lên dưới mái nhà sàn. Những nét văn hóa này hiện nay được tích hợp trong các tiết mục văn nghệ, các cuộc hội hè đón tiếp du khách. Một Chiềng Ngam cổ xưa, một chiềng Ngam đổi mới và phát triển đang là bức tranh sống động mà người phương xa rất dễ nhận thấy khi về đất này.

Bài ảnh: Đình Tuyên

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Thái

Tên tự gọi: Tay hoặc Thay

Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.

Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).

Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.

Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.

Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.

Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...

Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.

Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.

: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.

Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).

Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:

Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.

Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.

Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:

Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).

Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.

Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.

Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.

Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.

Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.

Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.

Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Thái

Có thể bạn quan tâm

 Akŏ Dhông, "Buôn trong lòng phố"

Akŏ Dhông, "Buôn trong lòng phố"

Nằm trong lòng thành phố Buôn Ma Thuột náo nhiệt, Buôn Akŏ Dhông có diện tích 62,3 ha với 247 hộ, được xem là buôn làng đẹp nhất ở Đắk Lắk hiện nay.

Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong trường học

Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong trường học

Nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, những năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk đã tích cực phối hợp cùng ngành Văn hóa triển khai nhiều chương trình, giải pháp với các hoạt động đa dạng, phong phú, mang đến cho học sinh nhiều kiến thức về nét đẹp truyền thống, giúp các em biết trân trọng, giữ gìn và lan tỏa.

Đỏ rực trời mùa hoa gạo tháng Ba

Đỏ rực trời mùa hoa gạo tháng Ba

Hoa gạo là loài hoa nở trong dịp cuối Xuân, vào tháng Ba, thời khắc báo hiệu những ngày rét chuẩn bị đi qua, nhường chỗ cho những tia nắng hạ. Cây gạo đỏ rực một vùng trời gắn liền với khung cảnh êm đềm, từ lâu trở thành linh hồn của mỗi làng quê Bắc bộ, gắn với ký ức của những người con xa quê nhớ về nguồn cội.

Nậm Nghiệp, mùa hoa sơn tra nở rộ

Nậm Nghiệp, mùa hoa sơn tra nở rộ

Từ khoảng giữa tháng 3, hoa sơn tra (táo mèo) lại nở rộ nhuộm trắng tinh khôi những đồi núi, bản làng ở xã Ngọc Chiến (huyện Mường La, Sơn La), mời gọi bước chân du khách gần xa.

Nhà trình tường, di sản văn hóa người Mông ở Hà Giang

Nhà trình tường, di sản văn hóa người Mông ở Hà Giang

Những ngôi nhà trình tường với kiến trúc cổ truyền được coi là một nét văn hoá của người Mông ở vùng Cao nguyên đá ở Hà Giang. Theo quan niệm của họ, ngôi nhà trình tường truyền thống chính là thước đo đánh giá sự giàu có của mỗi gia đình, mỗi dòng họ, đây cũng là căn cứ để xác định đâu là người Mông cư trú lâu nhất vùng.

Kỷ lục gia sưu tập kỷ vật người Hoa ở Việt Nam

Kỷ lục gia sưu tập kỷ vật người Hoa ở Việt Nam

Anh Dương Rạch Sanh, ngụ ở quận 5 đang giữ hơn 2.500 kỷ vật của người Hoa ở TP. HCM là người đang xác lập kỷ lục Việt Nam: "Người sở hữu bộ sưu tập kỷ vật của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1975 có số lượng nhiều nhất". Đây là bộ sưu tập lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc và mang dấu ấn quá trình hội nhập của cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn

Đảng viên Quàng Văn Khóa - "người thầy” của đồng bào dân tộc Thái xã Mường Khoa

Đảng viên Quàng Văn Khóa - "người thầy” của đồng bào dân tộc Thái xã Mường Khoa

Với 75 năm tuổi đời, 46 năm tuổi Đảng, ông Quàng Văn Khóa, dân tộc Thái ở bản Khoa, xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La nhiều năm qua đã dành hết tâm huyết để dạy chữ và tiếng Thái cho bà con dân bản nhằm bảo tồn và giữ gìn tiếng nói và chữ viết riêng mà nhiều dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam không có.

Hà Giang, điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách quốc tế

Hà Giang, điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách quốc tế

Hà Giang, địa danh nổi tiếng với những cung đường đèo uốn lượn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những bản làng mộc mạc nép mình bên triền đá ẩn giấu bao điều thú vị về văn hóa, cuộc sống chân thực của đồng bào dân tộc thiểu số đang ngày càng nổi tiếng trên bản đồ du lịch Việt Nam và thế giới (theo dữ liệu tìm kiếm từ nền tảng du lịch số Agoda).

Triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa - Tổ quốc nơi đầu sóng"

Triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa - Tổ quốc nơi đầu sóng"

Tại quân cảng Cam Ranh, Bộ tư lệnh Vùng 4 Hải quân phối hợp với Cục Chính trị Hải quân, CLB phóng viên ảnh Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV tổ chức lễ khai mạc triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa – Tổ quốc nơi đầu sóng” và “Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng – 70 năm hành trình giữ biển”. Đây là hoạt động nhân dịp 50 năm giải phóng Quần đảo Trường sa (29/4/1975) và 70 năm thành lập Hải quân Nhân dân Việt Nam (7/5/1955).

Tây Nguyên đại ngàn “mùa con ong đi lấy mật”

Tây Nguyên đại ngàn “mùa con ong đi lấy mật”

Tây Nguyên, xứ sở của những thiên sử thi đậm chất huyền thoại, vùng đất của đại ngàn xanh thẳm, nơi có những con đường uốn lượn qua những cánh rừng già, nơi những bản làng mộc mạc ẩn hiện giữa mây trời, nơi văn hóa cồng chiêng đậm đà bản sắc dân tộc hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại luôn có sức mê hoặc lạ kỳ.

Hoa sưa Hà Nội - Nét họa tinh khôi giữa trời

Hoa sưa Hà Nội - Nét họa tinh khôi giữa trời

Khúc giao mùa của phố thường được bắt đầu từ những sắc hoa màu lá. Hoa sưa là sắc hoa của Hà Thành, hoa của tháng 3 trong tiết xuân đang dần qua êm đềm mà có lẽ chỉ có Hà Thành mới có và đậm đà như thế.

Bác sĩ Nguyễn Văn Hiệp, tấm gương sáng về y đức nơi vùng cao của Lào Cai

Bác sĩ Nguyễn Văn Hiệp, tấm gương sáng về y đức nơi vùng cao của Lào Cai

Mặc dù địa bàn là xã nghèo, khó khăn của huyện Bát Xát, đường xá đi lại vô cùng vất vả, nhất là vào mùa mưa nhưng bằng lòng yêu nghề, thương dân, bác sĩ Nguyễn Văn Hiệp đã không quản khó khăn, vất vả trở thành chỗ dựa tin cậy của đồng bào dân tộc địa phương mỗi khi đau ốm. bệnh tật.

Đặc sắc Hội voi Buôn Đôn

Đặc sắc Hội voi Buôn Đôn

Ngày 12/3/2025, tại xã biên giới Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk diễn ra Hội voi Buôn Đôn năm 2025. Đây là chuỗi hoạt động trong khuôn khổ chào mừng kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắk Lắk (10/3/1975 - 10/3/2025) và Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9 năm 2025.

Rừng hoa ban cổ thụ đẹp như cổ tích ở Nặm Cứm

Rừng hoa ban cổ thụ đẹp như cổ tích ở Nặm Cứm

Cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) chừng 50 km, bản Nặm Cứm, xã Ngối Cáy, huyện Mường Ảng có khoảng 1.200 cây hoa ban cổ thụ. Vào tháng 3 hàng năm, rừng ban cổ thụ ở Nặm Cứm bung nở trắng muốt khiến bản làng bừng sáng, đẹp như xứ sở mộng mơ.

Công an xã, điểm tựa vững chắc của người dân nơi biên cương Tổ quốc

Công an xã, điểm tựa vững chắc của người dân nơi biên cương Tổ quốc

Dìn Chin là xã vùng cao biên giới, đồng thời là một trong 10 xã nghèo và đặc biệt khó khăn của tỉnh Lào Cai với đường biên giới giáp Trung Quốc, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc Nùng, Mông. Được sự quan tâm chính quyền và lực lượng Công an xã cùng sự đồng lòng ủng hộ nhân dân trên địa bàn, phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ đã có những bước phát triển mới.

Mãn nhãn với màn biểu diễn võ thuật, khí công của lực lượng công an nhân dân

Mãn nhãn với màn biểu diễn võ thuật, khí công của lực lượng công an nhân dân

Chiều 9/3/2025, tại khu vực hồ Hoàn Kiếm, cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Cảnh vệ và Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động tổ chức nhiều màn trình diễn võ thuật, khí công cùng những tình huống giả định mô phỏng kỹ năng trấn áp tội phạm đặc sắc, mang đến cho người dân và du khách sự hứng khởi, thích thú với các màn trình diễn kỹ thuật ấn tượng, thể hiện bản lĩnh và sự tinh nhuệ điêu luyện mang đậm dấu ấn của lực lượng Công an nhân dân.

Những bóng hồng đội nắng thắng mưa luyện tập cho lễ duyệt binh

Những bóng hồng đội nắng thắng mưa luyện tập cho lễ duyệt binh

Gần 3 tháng qua, tại Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, các thành viên đội hình Nữ Chiến sĩ Biệt động Sài Gòn, Nữ Du kích miền Nam, Nữ Dân quân tự vệ tham gia lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025).

Vẻ đẹp cánh đồng rong biển ở Ninh Thuận

Vẻ đẹp cánh đồng rong biển ở Ninh Thuận

Cánh đồng rong biển ở thôn Từ Thiện, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam (Ninh Thuận) đang vào thời điểm đẹp nhất trong năm. Khi thủy triều rút, rong biển xanh mướt hiện lên trên nền bãi rạn rộng hơn 500 m và kéo dài khoảng 4km, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.

Hợp luyện chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Hợp luyện chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Sáng 4/3/2025, tại Trung tâm huấn luyện Quân sự 4 Miếu Môn (Hà Nội), Bộ Quốc phòng tổ chức hợp luyện diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo.

Chiến dịch Tây Nguyên mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam

Chiến dịch Tây Nguyên mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam

Chiến dịch Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4/3 đến 3/4/1975, mở đầu cho Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của quân và dân ta, tạo nên bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tiêu diệt và làm tan rã một lực lượng lớn quân địch phòng ngự, tạo bước ngoặt quyết định, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Rực rỡ sắc hoa đào ở Lùng Cúng

Rực rỡ sắc hoa đào ở Lùng Cúng

Những ngày này, đến với bản vùng cao Lùng Cúng (huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái), người dân và du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của các loài hoa, nhất là sắc hồng của hoa đào mang đậm chất núi rừng Tây Bắc vào mỗi dịp đầu Xuân năm mới.

Y tế cơ sở, “xương sống” của hệ thống y tế Việt Nam

Y tế cơ sở, “xương sống” của hệ thống y tế Việt Nam

Y tế cơ sở ở Việt Nam được coi là nền tảng, xương sống của hệ thống y tế; đồng thời là tuyến đầu, "người gác cổng" của hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu, trực tiếp gần dân nhất; góp phần tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch vụ y tế ngay tại cơ sở, bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe và giảm thấp nhất chi phí khám chữa bệnh cho người dân.