Tái hiện Lễ hội cúng Thần Lúa (Sayangva) của dân tộc Chơ Ro

Trong khuôn khổ các hoạt động của Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam” năm 2024, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Chơ Ro đến từ tỉnh Đồng Nai đã tổ chức tái hiện Lễ hội cúng Thần Lúa (Sayangva) đặc sắc của dân tộc mình.

DSC03917.JPG
Bà con chuẩn bị các lễ vật cho lễ cúng. Ảnh: Hoàng Tâm
DSC03882.JPG
Bà con Chơ Ro giã bánh dầy chuẩn bị cho lễ cúng. Ảnh: Hoàng Tâm

Người Chơ Ro có tín ngưỡng vạn vật hữu linh nên tôn thờ rất nhiều Thần linh như: Thần Lúa (Yang Va), Thần Nhà (Yang Nhi), Thần Rừng (Yang Bri), Thần Suối (Yang Dal), Thần Rẫy (Yang Re), Thần Ruộng (Yang Mơ)... Trong các vị thần kể trên, họ coi trọng nhất là Thần Lúa (Sayangva).

DSC04175.JPG
Các lễ vật trong lễ cúng thần lúa của đồng bào Chơ Ro. Ảnh: Hoàng Tâm
DSC04169.JPG
Các lễ vật cúng được bà con chuẩn bị đầy đủ và chu đáo. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội cúng Thần Lúa được tổ chức vào dịp thu hoạch xong và chuẩn bị bắt đầu mùa vụ mới, thường vào khoảng tháng 2 đến tháng 3 âm lịch. Đây là lễ hội lớn nhất mang dấu ấn lễ nghi nông nghiệp độc đáo và như một ngày Tết của đồng bào.

DSC04004.JPG
Trước lễ cúng, người phụ nữ lớn tuổi trong làng cùng mọi người lên nương rẫy để lấy các nông sản vật về làm lễ. Ảnh: Hoàng Tâm

Trong lễ hội, già làng hoặc người lớn tuổi đại diện làm chủ lễ, là người kết nối giữa cộng đồng với các thần linh, đọc các bài văn khấn gửi tới các thần linh, ông bà tổ tiên, bày tỏ biết ơn vì đã cho cộng đồng một mùa bội thu và cầu xin mưa thuận gió hòa để mùa vụ năm sau nhà nhà được no đủ. Đây cũng là dịp để cầu an, cầu phúc cho gia đình, dòng tộc và cho cộng đồng.

DSC04032.JPG
Quan trọng nhất là cụm lúa để dành cúng thần được mọi người mang về để bàn thờ. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ cúng được bắt đầu bằng việc làm cây nêu đặt trước sân nhà chính. Vào buổi sáng, người phụ nữ Chơ Ro sẽ đi rước hồn lúa.

DSC04044.JPG
Mọi người mang các nông sản và bụi lúa cúng thần về làm lễ cúng ở nhà rông. Ảnh: Hoàng Tâm

Trước khi vào nghi thức cúng chính, người phụ nữ lớn tuổi trong nhà mang gùi rẫy ra. Đến chỗ lúa để dành cúng thần, bà vái các thần linh trước rồi cắt bụi lúa mang về. Những bông lúa này dùng để trang trí lên ban thờ.

DSC04065.JPG
Dàn cồng chiêng tạo nên bầu không khí thiêng liêng và ấm cúng của buổi lễ. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ cúng thường bắt đầu vào buổi trưa, lễ vật gồm: gà, heo, rượu cần và nhiều loại bánh. Trong suốt quá trình làm lễ đều có đệm cồng chiêng để tạo bầu không khí thiêng liêng.

DSC04069.JPG
Người đàn bà lớn tuổi trong làng làm phép để buổi lễ bắt đầu. Ảnh: Hoàng Tâm

Thầy cúng khấn trình lòng thành của mình và cầu xin thần linh ban cho vụ mùa với những bông lúa nặng trĩu, chắc hạt. Đó cũng chính là ước vọng chung của những cư dân làm nông nghiệp.

DSC04100.JPG
Mọi người đều thành tâm trong lễ cúng để mong thần lúa phù hộ cho dân làng mùa màng bội thu. Ảnh: Hoàng Tâm
DSC04111.JPG
Thầy cúng mời thần linh về chứng giám buổi lễ của dân làng. Ảnh: Hoàng Tâm
DSC04192.JPG
Thầy cúng thực hiện nghi thức cúng thần lúa. Ảnh: Hoàng Tâm
DSC04212.JPG
Sau lễ cúng dân làng cùng uống rượu cần và thụ lộc để mong được thần lúa che chở phù hộ. Ảnh: Hoàng Tâm

Sau phầu lễ đến phần hội, đồng bào Chơ Ro vui mừng tụ tập quanh gốc cây nêu trong âm thanh trầm bổng của cồng chiêng, nhịp khoan thả của đàn tre và tha thiết của kèn môi…

DSC03935.JPG
Sau phần lễ, mọi người cùng tấu cồng chiêng quanh cây nêu. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội cúng Thần Lúa là phong tục đặc sắc, văn hoá truyền thống lâu đời, không chỉ thể hiện lòng biết ơn, sự mong muốn mà ở đó còn thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng dân tộc Chơ Ro, góp phần giữ gìn và bảo tồn những phong tục, nghi lễ tốt đẹp trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.

Ý nghĩa lễ cúng Thần Lúa của đồng bào Chơ Rơ. Video-clip: Hoàng Tâm

Hoàng Tâm

(̣Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Chơ Ro Dân tộc Chơ Ro

Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.

Dân số: 26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.

Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.

Ăn: Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau.

Mặc: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.

: Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại Sông Bé (tỉnh Sông Bé từ năm 1997 đã được chia tách thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước) và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh. Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá - nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.

Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.

Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.

Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.

Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.

Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.

Lễ tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.

Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.

Học: Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.

Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.

Chơi: Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm