Hát Pả dung - nét văn hóa đặc sắc của người Dao Thái Nguyên

Xuất phát từ lao động sản xuất, tín ngưỡng hay phong tục tập quán đặc trưng mà mỗi dân tộc đều có một làn điệu dân ca thể hiện được nét văn hóa của dân tộc mình. Đối với người Dao Định Hoá (Thái Nguyên) làn điệu Pả Dung như tài sản vô giá để nuôi dưỡng tâm hồn, thể hiện tình yêu quê hương đất nước.

Ảnh 14.2.jpg
CLB phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao tại Định Hoá​

Là huyện miền núi có 17 dân tộc anh em cùng sinh sống, đồng bào DTTS chiếm tới 73%, huyện Định Hóa có sự đa dạng và rất giàu bản sắc văn hóa. Trong đó, phải nhắc tới nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc, như: Dân ca, dân vũ, Lễ hội Lồng Tồng, hát Then của người Tày; hát Sấng Cọ, múa Tắc Xình của người Sán Chay; hát Pả Dung của người Dao... Chính vì vậy, để những giá trị truyền thống này được lưu truyền, công tác gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống luôn được địa phương quan tâm.

Người Dao ở huyện Định Hóa sinh sống tại tất cả 23 xã, thị trấn, nhưng tập trung nhiều ở các xã Phúc Chu, Phú Đình, Bảo Linh và Kim Phượng, chủ yếu là người Dao Coóc Mùn. Cộng đồng người Dao ở đây đã và đang cùng nhau gìn giữ, phát huy nhiều bản sắc văn hóa của dân tộc mình đến tận ngày nay, như: Trang phục, Lễ cấp sắc, lễ cúng, hát Pả dung...

Anh 14.1.jpg
Nghệ nhân Bàn Thị Hồng, người dân tộc Dao, xã Phúc Chu, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên cùng các thành viên trong CLB tập hát làn điệu Pả Dung

Hát Pả Dung còn gọi là Pá Dung hay Páo Dung. Người Dao ở Định Hóa không biết lối hát này ra đời từ bao giờ, chỉ biết rằng làn điệu Pả Dung gắn bó với cộng đồng dân tộc Dao từ ngàn xưa. Thông qua hát Pả Dung, người Dao gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước nguyện của mình về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Hát Pả dung được chia thành nhiều loại khác nhau, trong đó, hát Pả dung sinh hoạt gồm các bài hát ru, hát vui chơi, hát giao duyên, hát đối đáp nam nữ, hát than…; hát Pả dung lễ nghi tín ngưỡng, phong tục là những bài hát sử dụng trong các nghi lễ truyền thống của đồng bào Dao, như: Hát trong lễ Cấp sắc, lễ cưới, đám tang, cúng đầy tháng…; hát Pả dung trong lao động gồm những bài hát ca ngợi lao động, sản xuất, cảnh đẹp thiên nhiên, thời tiết, mùa vụ, được các thế hệ người Dao tích lũy và truyền lại.

Lời ca chủ yếu hình thành, tồn tại dưới dạng cấu trúc thơ, thể thơ thất ngôn. Một bài hát thường gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ; hai câu hợp lại thành một ý, hai ý trọn vẹn là một bài, khi hát có thể nhấn nhá, dùng từ đệm để kéo dài câu hát. Giai điệu cơ bản giống nhau, nhưng mỗi làn điệu khác nhau lại được diễn xuất với giọng điệu, âm hưởng khác nhau để trở nên mượt mà, mềm mại, êm ái, tha thiết hay khoẻ khoắn, hùng tráng…

Nghệ nhân Bàn Thị Hồng, người dân tộc Dao, xã Phúc Chu, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên chia sẻ: hát Pả Dung có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của đồng bào dân tộc Dao bởi vậy, cùng với việc sưu tầm, gìn giữ các lời hát cổ, tôi còn sáng tác lời hát mới và cùng các thành viên trong CLB thường xuyên giao lưu văn hoá, văn nghệ và truyền dạy cho người trẻ.

Bà Hoàng Thị Ngà - Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cho biết: Hàng năm, chúng tôi đều đẩy mạnh tuyên truyền, hỗ trợ các CLB văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện tổ chức sưu tầm, tập hợp tư liệu, sách cổ về văn hóa truyền thống còn lưu giữ được trong nhân dân, sau đó dịch ra tiếng phổ thông làm tài liệu tuyên truyền.

Thực hiện Đề án “Phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống các dân tộc huyện Định Hóa giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030” nhiều di tích được bảo tồn, tôn tạo, khôi phục. Các giá trị văn hóa tinh thần cũng được khuyến khích phát triển… Đây thực sự là tín hiệu đáng mừng, từng bước góp phần quan trọng giúp bảo tồn và phát huy hiệu quả giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc nơi đây.

Có thể thấy, hát Pả dung trong đời sống tâm linh của người Dao ở Định Hoá, Thái Nguyên không chỉ là một hình thức tín ngưỡng mà còn là văn hoá, là bản sắc của người Dao. Bởi vậy, cuối tháng 10/2018, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã công nhận bổ sung thêm 8 di sản văn hóa phi vật thể vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, trong đó có hát dân ca Pả dung và lễ Cấp sắc của người Dao.Nghệ nhân Bàn Thị Hồng, người dân tộc Dao, xã Phúc Chu, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên cùng các thành viên trong CLB tập hát làn điệu Pả Dung.

Hoàng Thảo Nguyên

(TTXVN)
Dân tộc Dao Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm