60 đội tham gia tranh tài tại giải đua ghe ngo lớn nhất miền Tây

60 đội tham gia tranh tài tại giải đua ghe ngo lớn nhất miền Tây

Trưa 14/11, hàng trăm nghìn người dân Sóc Trăng, các địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long và du khách đã hào hứng tham dự lễ khai mạc giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng, Khu vực đồng bằng sông Cửu Long lần VI tại đường đua trên sông Maspero, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Mặc dù trời nắng nóng gay gắt nhưng người dân và du khách vẫn tập trung từ sớm và đứng kín dọc hai bên bờ sông để cổ vũ cho các đội ghe Ngo. Ngay sau lễ khai mạc, giải đấu diễn ra sôi nổi, các đội đua thi triển kỹ thuật bơi hấp dẫn và kịch tích ngay từ vòng loại trong tiếng hò reo cổ vũ vang dội của người hâm mộ.

IMG_0310.jpg
Bí thư tỉnh ủy Sóc Trăng Lâm Văn Mẫn trao cờ lưu niệm cho đại diện các đội đua tham gia Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024. Ảnh: An Hiếu
HIE_5487.jpg
Ông Ngô Hùng, Chủ tịch ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Sóc Trăng trao cờ lưu niệm và quà tặng cho đại diện các đội đua tham gia Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024. Ảnh: An Hiếu
IMG_0055.jpg
Hàng ngan vận động viên của các đội đua tham gia Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024. Ảnh: An Hiếu
IMG_0106.jpg
Không gian đậm sắc màu dân tộc Khmer tại lễ khai mạc Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024. Ảnh: An Hiếu
IMG_0247.jpg
Đua ghe ngo là phần hấp dẫn nhất trong Lễ hội Ook Om Bok , một trong 3 lễ hội lớn của người Khmer, bên cạnh Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay và lễ cúng ông bà Sene Dolta. Ảnh: An HIếu
HIE_5423.jpg
Các vị sư Khmer theo dõi Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 trên khán đài. Ảnh: An Hiếu

Theo ông Lâm Hoàng Mẫu, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Sóc Trăng, giải đua ghe Ngo năm nay có 60 đội trong đó Sóc Trăng có 48 đội (45 đội nam và 3 đội nữ), các tỉnh lân cận (Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang) có 12 đội ghe (8 đội nam và 4 đội nữ). Gần 7.200 vận động viên, huấn luyện viên và nhân viên phục vụ cùng tham gia. Đối với nội dung nam, có 53 đội được chia làm 13 bảng thi đấu. Đây là hoạt động chính trong chuỗi 11 hoạt động của Lễ hội Oóc Om Bóc - Đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng, khu vực đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VI và Tuần Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng lần thứ I năm 2024.

Ban tổ chức căn cứ vào thành tích thi đấu qua các mùa giải của các đội ghe đã chọn ra 4 đội ghe hạt giống nằm ở các bảng khác nhau gồm có các đội: Tum Núp 2 (huyện Châu Thành), Ông Kho (huyện Thạnh Trị), Sro Lôn 1 (huyện Mỹ Xuyên) và Pong Tứk Chăs (huyện Thạnh Trị). Trong số 13 bảng thi đấu, có 12 bảng, mỗi bảng 4 đội và 1 bảng có 5 đội. Các đội ghe nam tranh tài cự ly 1.200m. Các đội ghe nữ có 7 đội, chia làm 2 bảng (1 bảng 4 đội và 1 bảng 3 đội) thi đấu vòng tròn một lượt tính điểm để chọn đội nhất, nhì của mỗi bảng vào vòng bán kết, chung kết xếp hạng. Các đội tranh tài cự ly 1.000m.

Đối với đồng bào Khmer, chiếc ghe ngo có vị trí vô cùng quan trọng, được xem là vị thần bảo vệ sự bình yên, là hiện thân của tình đoàn kết và sức mạnh thôn xóm. Vì thế, khi có ghe ngo thì bà con Khmer từ trẻ đến già đều thể hiện sự trân trọng và yêu thích khi được góp sức cho đội ghe và thôn xóm của mình, nhiều gia đình sẵn sàng tự bỏ tiền để lo cho cả đội ghe ngo từ lúc tập luyện cho đến ngày khai hội.

Những năm gần đây, được sự quan tâm hỗ trợ từ các cấp chính quyền, nguồn vận động từ các chùa, nhiều chùa đã đóng ghe ngo mới, góp phần đưa môn thể thao đua ghe ngo truyền thống ngày càng phát triển sâu rộng. Nhiều huyện, thị xã, thành phố cũng đã quan tâm hỗ trợ kinh phí cho các chùa tham gia lễ hội. Chính điều đó tạo động lực cho các đội ghe ngo nỗ lực trên đường đua.

DJI_0892.jpg
Dòng sông Maspero là địa điểm quen thuộc để các đội đua tranh tài tại giải Đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng và khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Quang Châu
IMG_0431.jpg
Các vận động viên các đội đua ghe Ngo hào hứng với giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: An Hiếu
IMG_0416.jpg
Quang cảnh Giải đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024. Ảnh: An Hiếu
IMG_0603.jpg
Các vị sư và bà con Khmer tập trung hai bên bờ sông Maspero để cổ vũ cho các đội đua ghe Ngo tranh tài. Ảnh: An Hiếu
IMG_0497.jpg
Bà con Khmer tập trung hai bên bờ sông Maspero để cổ vũ cho các đội đua ghe Ngo tranh tài tại giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: An Hiếu Ảnh: An Hiếu
DJI_0882.jpg
Các đội đua tranh trài tại giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Quang Châu
DJI_0855.jpg
Các đội đua tranh trài tại giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Quang Châu
HIE_5566.jpg
Bà con Khmer hào hứng cổ vũ các đội đua tại giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: An Hiếu
HIE_5581.jpg
Các vận động viên dùng hết khả năng, kỹ thuật để bức tốc về đích tại giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: An Hiếu
HIE_5551.jpg
Giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long 2024 thu hút đông đảo bà con Khmer và du khách gần xa đến tham quan, cổ vũ. Ảnh: An Hiếu
IMG_0405.jpg
Quang cảnh Giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long 2024. Ảnh: An Hiếu
HIE_5537.jpg
Hai đội ghe Ngo cùng nhau tranh tài tại Giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long 2024. Ảnh: An Hiếu
HIE_5639.jpg
Mỗi đội đua ghe Ngo thường có khoảng 60 vận động viên cùng nhau thể hiện sức mạnh đoàn kết. Ảnh: An Hiếu
IMG_0388.jpg
Các đội đua bức tốc về đích tại Giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng khu vực khu vực đồng bằng sông Cửu Long 2024. Ảnh: An Hiếu

Lễ hội đua ghe Ngo của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng được Bộ VH-TT&DL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, được công nhận kỷ lục Việt Nam về giải đua ghe Ngo có số lượng đội ghe và số lượng vận động viên nhiều nhất lễ hội Óc Om Bóc tính từ năm 2005 đến nay.

Đây cũng là dịp đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Khmer ở miền Tây Nam Bộ nói riêng, thể hiện niềm tin yêu của mình đối với Ðảng, Nhà nước, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng lòng, chung sức xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Thu Hương - An Hiếu

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm