Thêm một mùa Sen Dolta lại về, đồng bào Khmer ở thị xã Tịnh Biên không chỉ háo hức đón lễ cúng ông bà truyền thống mà còn nô nức tham gia Hội đua bò Chùa Rô, nét sinh hoạt văn hóa và cũng là môn thể thao độc đáo ở vùng Bảy Núi, An Giang được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Tọa lạc tại xã An Cư, Chùa Rô không chỉ là một công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo mà còn là trung tâm văn hóa của cộng đồng Khmer địa phương, lưu giữ và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc Khmer.
Hội Đua Bò được tổ chức thường niên tại chùa Rô là một trong những hoạt động văn hóa đặc sắc nhất, thu hút sự quan tâm không chỉ của bà con Khmer mà còn của đông đảo du khách, đặc biệt khi lễ Sen Dolta đang đến gần.
Chia sẻ với Báo ảnh Dân tộc và Miền núi, Thượng toạ Chau Sóc Khonl, Trụ trì chùa Rô cho biết, đua bò đã được chùa tổ chức trong khuôn viên từ nhiều năm về trước, thể hiện sự gắn bó, chia sẻ và kết nối tình cảm anh em trong cộng đồng. Đây cũng là cách tưởng nhớ ông bà tổ tiên, tỏ lòng hiếu kính, tưởng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của người thân đã khuất.
Theo nghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Phúc Hậu, Chi hội trưởng Chi hội nhiếp ảnh tỉnh An Giang, Phó Trưởng ban tổ chức thì Hội đua bò năm nay có 24 đôi bò xuất sắc, được bà con Khmer trên địa bàn huyện Tri Tôn và thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang tuyển chọn kỹ càng.
Các đôi bò tham gia thi đấu được chủ bò đầu tư chăm sóc theo bí quyết riêng, các “nài bò” (người điều khiển bò) đã tập luyện từ nhiều tháng nay để có thể giành được giải thưởng cao nhất.
Với thể thức tranh tài loại trực tiếp 1 lần thua, trong mỗi trận đua, 2 đôi bò sẽ trải qua 1 vòng hô, 1 vòng thả trong không khí ngày càng nóng lên cùng tiếng nhạc ngũ âm rộn ràng và sự cổ vũ nhiệt tình của khán giả.
Người dân ở đây luôn tự hào nếu đội của phum sóc mình giành giải cao trong hội đua bò, vì họ quan niệm nếu chiến thắng thì mùa màng sẽ bội thu. Đồng bào Khmer cũng sẽ không giết thịt đôi bò thắng cuộc mà sẽ giữ và chăm sóc như một tài sản của gia đình và phum sóc.
Kết quả chung cuộc, đôi bò mang số 02 của ông Chau Thi (xã Văn Giáo) đoạt cúp vô địch Hội đua bò chùa Rô lần thứ X; đôi bò số 22 của ông Nguyễn Ngọc Tiến (phường An Phú) đoạt giải nhì; đôi bò số 15 của ông Trần Quốc Kiệt (phường An Phú) đạt giải ba.
Với quy mô ngày càng lớn, được nhiều người biết đến, Hội đua bò cũng là dịp để các anh em dân tộc Khmer và Kinh cùng vui chơi, thi đấu, tạo nên nét văn hoá độc đáo và gắn kết tình thân giữa các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn vùng đất Thất Sơn.
"Lễ hội đua bò chùa Rô được UBND xã An Cư đứng ra tổ chức đã chỉn chu, chuyên nghiệp hơn. Đây chính là mô hình xã hội hóa rất thành công có sự kết hợp giữa 3 nhà là "Nhà nước - nhà chùa - nhà tài trợ" trong việc bảo tồn và lan tỏa những di sản văn hóa đến khắp mọi nơi. Lễ hội đua bò đã mở đầu cho tết Sen Dolta của đồng bào Khmer", ông Huỳnh Phúc Hậu, Phó Trưởng ban tổ chức thì Hội đua bò chùa Rô chia sẻ.
Trong khuôn khổ Hội Đua bò, còn có Hội Cấy mạ, là lúc các sư sãi của chùa cùng đồng bào cấy mạ tại khu vực sân đua, tạo không khí vui tươi, đoàn kết dân tộc trong ngày hội.
Thu Hương - An Hiếu - Trọng Chính
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn