Từ cổng nhìn vào thánh đường Masjid Al Khairiyah có kiến trúc với màu sắc rất nổi bật, độc đáo, huyền bí, điểm tham quan lý tưởng cho những du khách đam mê khám phá về văn hóa bản địa. Ảnh: An Hiếu
Từ cổng nhìn vào thánh đường Masjid Al Khairiyah có kiến trúc với màu sắc rất nổi bật, độc đáo, huyền bí, điểm tham quan lý tưởng cho những du khách đam mê khám phá về văn hóa bản địa. Ảnh: An Hiếu

Masjid Al Khairiyah, Thánh đường Hồi giáo uy nghi bên Búng Bình Thiên

Ngoài vẻ đẹp của thiên nhiên, những cánh đồng lúa trải dài, các lễ hội độc đáo, An Giang còn hấp dẫn du khách bởi những thánh đường Hồi giáo và một trong số đó là Thánh đường Masjid Al Khairiyah, nơi từ lâu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Chăm theo đạo Islam ở An Giang.

Nằm trên địa bàn xã Nhơn Hội, huyện An Phú, Thánh đường Masjid Al Khairiyah vừa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm theo đạo Hồi vừa là điểm tham quan của du khách khi tới Búng Bình Thiên, một hồ nước ngọt rộng tới 200 ha, được xem là lớn nhất miền Tây Nam Bộ.

AYWY4451cp1.jpg
Có kiến trúc mang nét đặc thù của đạo Hồi, cổng chính Thánh đường Masjid Al Khairiyah hình vòng cung, trước là khoảng sân rộng. Trên nóc giáo đường có 1 tháp lớn hai tầng hình bầu dục. Ảnh: Trọng Chính
DJI_20240909084914_0182_D_TTXVN.jpg
Thánh đường Masjid Jamiul Azhar có màu sắc chủ đạo là màu trắng kết hợp với màu xanh ngọc. Màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và màu xanh thể hiện niềm hạnh phúc, an lạc, vĩnh hằng. Ảnh: An Hiếu
IMG_1942.jpg
Các họa tiết hoa văn với màu sắc nổi bật bao bọc mái vòm của thánh đường Masjid Al Khairiyah tạo nên vẻ đẹp rất riêng của cộng đồng Chăm Hồi Giáo ở An Giang. Ảnh: An Hiếu
IMG_1770.jpg
Thánh đường Masjid Al Khairiyah tập trung vào những họa tiết về các hình tròn, vuông, chữ nhật, đa giác, đường gợn sóng, hình ngôi sao, hình vòm, trăng lưỡi liềm... Trong đó, nổi bật nhất chính là biểu tượng vành trăng khuyết và ngôi sao năm cánh tượng trưng cho Âm lịch đạo Hồi và sự tuân theo ý Allah (Đấng toàn năng, hay Thượng đế). Ảnh: An Hiếu
DJI_20240909084747_0179_D_TTXVN.jpg
Thánh đường Masjid Al Khairiyah có nhiều khu vực khác nhau như khu hành lễ, dạy học chữ Chăm, nghĩa trang... Ảnh: An Hiếu
HIE_2960.jpg
Bia mộ có tuổi đời gần 100 năm trong khu vực thánh đường Masjid Al Khairiyah. Ảnh: An Hiếu

Đứng bên này Búng Bình Thiên, du khách có thể nhìn thấy từ xa mái vòm của thánh đường, với biểu tượng trăng lưỡi liềm và ngôi sao năm cánh của Hồi giáo. Trong đó, Trăng lưỡi liềm tượng trưng cho Âm lịch Hồi giáo, còn ngôi sao là biểu tượng của sự tuân theo ý Chúa Trời.

Tới gần hơn, du khách sẽ được chiêm ngưỡng từng đường nét kiến trúc dưới mái vòm, tất cả đều mang đậm phong cách Hồi giáo. Khu vực dưới mái vòm của thánh đường, thường được gọi là Qubba - tượng trưng cho vòm trời.

Không gian bên trong thánh đường rộng lớn, không có sự bày biện trang trí nhiều, ấn tượng nhất là những cột đá, gạch lát sàn nhà và từng ngọn đèn chùm với họa tiết sắc sảo.

cp1 XQEF1142.jpg
Mỗi ngày, cộng đồng người Chăm theo đạo Hồi tới Thánh đường 5 lần để cầu nguyện vào các thời gian trước khi mặt trời mọc, trước giữa trưa, xế chiều, tối và trước khi đi ngủ. Riêng ngày thứ 6, tín đồ đến gần như đông đủ vào lúc 12 giờ trưa và tập trung nghe giáo cả đọc kinh trong vòng một giờ đồng hồ. Điều đặc biệt là phụ nữ không được phép bước vào phía trong Thánh đường. Ảnh: Trọng Chính
cp1 RDPU1656.jpg
Nhà nguyện chia làm 2 phần. Phần dưới là để các tín đồ đến hành lễ. Và một phần quan trọng là chính điện ở phía Tây, được thiết kế theo kiểu lõm sâu vào tường. Đây là nơi mà các tín đồ sẽ hướng về khi cầu nguyện. Các chủ lễ sẽ đứng ở nơi này hướng dẫn các tín đồ làm lễ. Ảnh: Trọng Chính
cp1 FAFA8827.jpg
Tín đồ làm với tư thế hành lễ Hồi giáo là đứng, quỳ và phủ phụctại Thánh đường. Ảnh: Trọng Chính

Tư thế hành lễ của các tín đồ Hồi giáo là đứng, quỳ và phủ phục nên trong thánh đường, chỉ có thảm chứ không có các hàng ghế ngồi như ở nhà thờ. Có lẽ gây chú ý nhất với du khách trong không gian này là bức tranh treo trên tường với hình ảnh nhà thờ Kaaba ở thánh địa Mecca - nơi đấng tiên tri Mohammed ra đời.

Bên cạnh đó là những chuỗi hạt cầu nguyện của các tín đồ cũng được treo ngay ngắn. Đây là những tràng hạt được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như nhựa, gỗ, gốm, đá quý…, giúp các tín đồ Hồi giáo ghi nhớ 99 tên của Thiên Chúa trong lúc làm lễ và cầu nguyện.

IMG_2489.jpg
Khu vực hành lễ của các tín đồ Chăm tại thánh đường Masjid Al Khairiyah có kiến trúc, hoa văn, màu sắc rất đơn giản thể hiện giá trị văn hóa riêng của cộng đồng Hồi Giáo (Islam). Ảnh: An Hiếu
IMG_2604.jpg
Khu vực hành lễ của các tín đồ Chăm tại thánh đường Masjid Al Khairiyah với màu sắc rất trang nhã, đặc trưng của cộng đồng Chăm Hồi Giáo (Islam) ở An Giang. Ảnh: An Hiếu
IMG_1594.jpg
Thánh đường Masjid Al Khairiyah vừa là nơi cầu nguyện, vừa là nơi học tập, bảo tồn chữ viết Chăm. Ảnh: An Hiếu
IMG_1717.jpg
Các thiếu nữ Chăm trong trang phục truyền thống đang học tập tại Thánh đường Masjid Al Khairiyah. Ảnh: An Hiếu
DJI_20240909084954_0184_D_TTXVN.jpg
Thánh đường Masjid Al Khairiyah tọa lạc ở xã Nhơn Hội, huyện An Phú (An Giang), là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, học tập của bà con người Chăm theo Hồi Giáo (Islam). Ảnh: An Hiếu
IMG_1759.jpg
Từ cổng nhìn vào thánh đường Masjid Al Khairiyah có kiến trúc với màu sắc nổi bật, độc đáo, huyền bí, điểm tham quan lý tưởng cho những du khách đam mê khám phá về văn hóa bản địa. Ảnh: An Hiếu

Thánh đường không chỉ là nơi thờ tự mà còn được sử dụng làm trung tâm giáo dục văn hóa của đồng bào Chăm, như lời Phó giáo cả thánh đường Masjid Al Khairiyah, ông Salay Mal cho biết đối với các làng Chăm, “cứ có thánh đường là có trường học” và trong khuôn viên thánh đường luôn có trường học, với những lớp học âm vang tiếng học và đọc kinh Qur’an, làm toát lên dáng vẻ vừa thanh bình vừa êm ả lại mang một vẻ đẹp huyền bí, độc đáo mang nét thu hút rất riêng.

Thu Hương - An Hiếu - Trọng Chính

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Chăm Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh ThuậnBình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. 

Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. 

Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. 

Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. 

Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.  

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm