Hè về rộn ràng lớp học chữ Khmer

Hè về rộn ràng lớp học chữ Khmer

Đối với trẻ em ở vùng nông thôn Sóc Trăng, hè là dịp để các em đến với những lớp dạy chữ Khmer ở các ngôi chùa, một không gian sinh hoạt hè vô cùng ý nghĩa đối với các em. Đây cũng là việc làm thiết thực trong việc góp phần chung tay giữ gìn, phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc Khmer.

Là địa phương có gần 100 chùa Khmer, mỗi năm cứ đến dịp hè các điểm chùa ở Sóc Trăng lại rộn ràng với lớp dạy tiếng Khmer cho học sinh là con em đồng bào trong phum sóc.

Tại chùa Po Thi Sa Tha Ram (Chùa Sóc Vồ) ở khóm 3, phường 7 (Thành phố Sóc Trăng) năm nay mở 2 lớp dạy chữ Khmer, lớp 1 và lớp 2, với 132 em ở độ tuổi từ 6 tuổi đến 14 tuổi tham gia.

Các lớp học được Ban Quản trị chùa và các nhà sư duy trì tổ chức từ nhiều năm qua nhằm góp phần trong việc giữ gìn và phát huy chữ viết dân tộc; đồng thời, giúp cho con em có được môi trường học tập lành mạnh và bổ ích.

Lớp học được diễn ra từ lúc 9 giờ đến 11 giờ 30 các ngày từ thứ 2 đến thứ 7 hàng tuần. Ngoài việc hỗ trợ miễn phí khi tham gia lớp học, học sinh còn được nhà chùa hỗ trợ tập, viết, sách giáo khoa.

01-SH.JPG
Sư Danh Hữu Bằng giáo viên đứng dạy lớp 2 hướng dẫn các em phát âm đúng mặt chữ tại lớp học điểm chùa Sóc Vồ.

Theo Sư Liêu Trí Dĩ, hiện đang là giáo viên đứng lớp dạy chữ Khmer trong chùa thì: "mỗi năm chùa mở 3 lớp từ lớp 1 đến lớp 3 với học sinh tham gia trên dưới 100 em, đặc biệt năm nay các em tham gia lớp học đông hơn nên chùa không đủ trang thiệt bị, cũng như cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu việc học của các em.".

Để khuyến khích các em học tập tốt, trước khi vào khóa học, nhà chùa đã hỗ trợ tập, viết cho học sinh cũng như tạo không khí vui tươi cho các em tham gia trò chơi viết chữ đúng chính tả, viết chữ đẹp.

Sinh năm 2013, cậu bé Sơn Vê Ha lần đầu cắp sách đến lớp học chữ Khmer, chia sẻ tại lớp học dành cho lớp 1: "Vào chùa, em vừa biết chữ vừa được tham gia các trò chơi nên rất thích. Bây giờ em đã đọc, viết được các chữ cái phụ âm và nguyên âm chữ Khmer. Em sẽ cố gắng học tốt để cuối khóa thi được điểm cao, có quà.:.

02-SH.JPG
Các em được giáo viên hướng dẫn viết theo đọc từng con chữ, đúng chính tả .
03-SH.JPG
Sư Liêu Trí Dĩ, 19 tuổi, đã tu học được 10 năm với nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong việc đứng lớp dạy chữ Khmer, giúp các em học sinh dễ tiếp thu

Đối với lớp học tại chùa, giáo viên chính là các vị sư có nhiều năm tu học, có kiến thức và kinh nghiệm, từ việc chuẩn bị giáo án, bố trí phòng học, sửa chữa trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học chất lượng. Mặc dù lớp học chỉ diễn ra trong thời gian 2 tháng hè, nhưng chất lượng học tập của các em luôn được nhà chùa chú trọng.

Theo đó, chương trình giảng dạy luôn được đổi mới, giáo viên còn kèm nhiều hoạt động khác để tạo không gian, sự hứng thú để giúp các em tiếp thu và ghi nhớ tốt nhất. Những buổi học gần gủi, bổ ích ngày hè xuất phát từ cái tâm người dạy, vừa là sân chơi thú vị, vừa là truyền cảm hứng cho các em hiểu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

05-SH.JPG
06-SH.JPG
04-SH.JPG
Các em học sinh luyện viết từng nét chữ cơ bản trong giờ học tại điểm học chùa Sóc Vồ khóm 3, phường 7, Sóc Trăng
07-SH.JPG
Sư Lý Văn Hậu, 19 tuổi, xuất gia được 5 năm và hiện là giáo viên đứng lớp dạy chữ Khmer tại điểm chùa Sóc Vồ, phường 7, Sóc Trăng
08-SH.JPG
Giờ học trên lớp của các em học chữ Khmer
09-SH.JPG
Hàng năm, cứ mỗi dịp hè về các lại được học chữ và tiếng nói mẹ đẻ của mình với tinh thần học nghiêm túc trong 2 tháng hè, các em có thể nhận biết mặt chữ và các đọc kỹ năng viết sẽ được bổ túc liên tục vào kỳ nghỉ tiếp theo.

Nhằm bảo tôn và phát huy tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc, các chùa luôn thúc con em đồng bào dân tộc tham gia lớp học. Hoạt động dạy chữ Khmer cũng luôn được sự ủng hộ từ chính quyên địa phương và các Phật tử Khmer giúp cho chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao.

Sơn Hên

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm