Bản đồ hành chính thành phố Cần Thơ |
1. Vị trí địa lý
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long, trải dài trên 65 Km dọc bờ Tây sông Hậu với diện tích tự nhiên 1.401 km2. Bắc giáp tỉnh An Giang; Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long; Tây giáp tỉnh Kiên Giang; Nam giáp tỉnh Hậu Giang. Nằm trong giới hạn: 105độ 13’ 38’’ – 105 độ 50’ 35’’ kinh độ Đông. 9độ 55’ 08’’ – 10 độ 19’ 38’’ vĩ độ Bắc.
2. Điều kiện tự nhiên
- Khí hậu, thủy văn: Cần Thơ có khí hậu nhiệt đới, hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm 2009 là 27 độ C, lượng mưa trung bình 1.500- 1.800 mm/năm, tổng số giờ nắng 2.300- 2.500 giờ, độ ẩm trung bình là 83%.
- Tài nguyên thiên nhiên: Cần Thơ nằm ở khu vực bồi tụ phù sa của sông Mêkong, trong đó Sông Hậu là con sông lớn với chiều dài chảy qua thành phố là 65 Km, tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Sông Cái Lớn dài 20 Km có khả năng tiêu thoát nước tốt. Sông Cần Thơ dài 16 Km đổ ra sông Hậu, nước ngọt quanh năm, có tác dụng tưới nước trong mùa nước kém vừa tiêu úng trong mùa nước đổ; đồng thời do có hệ thống kênh rạch dày đặc nên thuận lợi cho phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Địa chất, địa mạo: Cần Thơ thuộc vùng đồng lũ nửa mở, bao gồm 3 dạng địa mạo: đê tự nhiên sông Hậu, đồng lũ nửa mở thuộc vùng tứ giác Long Xuyên và đồng bằng châu thổ. Cao trình phổ biến từ 0,8 - 1,0 m và thấp dần từ Đông bắc sang Tây nam. Địa bàn được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long.
- Thổ nhưỡng: Có hai nhóm đất chính là nhóm đất phù sa chiếm 84% diện tích tự nhiên và 16% nhóm đất phèn. Khoáng sản thì có đất sét làm gạch ngói, sét dẻo, cát xây dựng, than bùn…Về tài nguyên sinh vật là đặc trưng cho vùng phù sa ngọt nhưng hiện nay cạn nguồn do tận dụng đánh bắt khai thác.
3. Lịch sử hình thành
Vào thế kỷ thứ XVII, ông Mạc Cửu là người Châu Lôi ở tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc. Do không thuần phục nhà Thanh nên kéo tùy tùng đến Hà Tiên đầu phục Chúa Nguyễn. Tại đây ông đã chiêu mộ dân phiêu tán khẩn hoang mở vùng đất mới. Chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Mậu Tý (1708) đã sắc phong cho ông làm Tổng binh trấn Hà Tiên và cho ông lập đồn binh ở Phương Thành. Năm 1732, Chúa Nguyễn phân định Nam bộ thành 3 dinh và 1 trấn gồm có: Trấn Biên Dinh thuộc vùng Biên Hòa, Phiên Trấn Dinh thuộc vùng Gia Định, Long Hồ Dinh thuộc vùng Vĩnh Long và 1 trấn là Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục sự nghiệp của cha đẩy mạnh công cuộc khai hoang mở đất đến 1739 thì hoàn thành xong việc khai mở và lập thêm 4 đạo là Long Xuyên, Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bắc Bạc Liêu) và sát nhập các đạo trên vào Hà Tiên. Với vị trí đắc địa Trấn Giang được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thuận cho Mạc Thiên Tứ xây dựng thành một thủ sở mạnh ở miền Hậu Giang. Như vậy, đất Cần Thơ được khai mở với tên là Trấn Giang từ năm 1739.
Đối với thực dân Pháp và ngụy quyền Sài Gòn thì Cần Thơ có nhiều thay đổi địa giới hành chính như: Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định lấy huyện Phong Phú cùng một phần huyện An Xuyên và Tân Thành lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ đặt tại làng Tân An. Đến năm 1954, Cần Thơ bao gồm huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Năm 1956, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một phần Long Mỹ, Vị Thanh thành lập tỉnh Chương Thiện.
Chính quyền Cách Mạng trong kháng chiến chống Pháp vào hai năm 1948- 1949 điều chỉnh địa giới hành chính: Cần Thơ nhận thêm Thốt Nốt của Long Xuyên, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá của tỉnh Rach Giá. Đồng thời Cần Thơ trả lại 2 huyện Cầu Kè và Trà Ôn cho Vĩnh Long và Trà Vinh. Tên gọi là tỉnh Cần Thơ. Tháng 11 năm 1954 chuyển Long Mỹ, Giồng Riềng, Gò Quao, thị xã Rạch Giá về tỉnh Rạch Giá. Trả huyện Kế Sách về tỉnh Sóc Trăng, Thốt Nốt về Long Xuyên. Năm 1957 nhận lại huyện Thốt Nốt, năm 1966 thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1969 tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ, năm 1971 thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ.
Thống nhất đất nước, Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976 của Chính phủ về việc sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang. Tháng 12 năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 ra Nghị quyết tách Hậu Giang thành 2 tỉnh- tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Kỳ họp thứ 4 của Quốc Hội khóa XI ra Nghị quyết số 22/2003/QH ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Nghị định số 05 của Chính phủ ngày 02/01/2004 tách tỉnh Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và lập tỉnh Hậu Giang. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 889-QĐ/TTg ngày 24/6/2009 công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương.
4. Dân cư
Trên địa bàn thành phố Cần Thơ có người thuộc 28 dân tộc sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), tiếp theo là các dân tộc Khmer, Hoa.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009 có 1.188.435 người, có 65,89% là dân thành thị; dân tộc Kinh chiếm 96,95%; mật độ dân số 848 người/Km2, quận Ninh Kiều có mật độ dân cư đông nhất 8.407 người/Km2 và mật độ dân cư thấp nhất là huyện Vĩnh Thạnh 274 người/Km2.
Theo cantho.gov.vn