An Giang vài nét tổng quan

An Giang vài nét tổng quan
1. Vị trí địa lý

Phía Bắc tây bắc giáp vương quốc Campuchia dài 104 km, Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,789 km, Nam giáp tỉnh Cần Thơ 44,734 km, Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107,628 km.

Điểm cực Bắc trên vĩ độ 10 độ 57' (xã Khánh An, huyện An Phú), cực Nam trên vĩ độ 10 độ 12' (xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn), cực tây trên kinh độ 104 độ 46' (xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), cực Đông trên kinh độ 105 độ35' (xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới).

Chiều dài nhất theo hướng Bắc Nam là 86 km và Đông Tây là 87,2 km.

An Giang có diện tích tự nhiên 3.424 km2.

2. Các đơn vị hành chính

An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương gồm 2 thành phố (Long Xuyên, Châu Đốc) và 9 huyện là Châu Thành, Thoại Sơn, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Tân Châu, An Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên.

3. An Giang qua các thời kỳ lịch sử

a-Thời kỳ phong kiến Nhà Nguyễn ( từ thế kỷ XVIII đến 1867):

Sách Đại Nam nhất thống chí viết về An Giang như sau: “Xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19 (1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất nầy, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương”.

Năm Mậu Thìn 1808, Gia Long đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành. Gia Định thành thống quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tỉnh An Giang ( ngày nay) lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh.
Năm Nhâm Thìn 1832, Minh Mạng đổi " Ngũ trấn" thành " Lục tỉnh" gồm : Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết “ Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) lấy đất nầy cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành ; đặt bốn huyện là Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An lập tỉnh An Giang, đặc chức An Hà Tổng đốc, thống lĩnh 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố chánh, Án sát” .

Như vậy, tỉnh An Giang được thành lập từ năm 1983, gồm có 2 phủ, 4 huyện. Lỵ sở của tỉnh An Giang đặc tại Châu Đốc, nơi Tổng đốc An Hà trú đóng cai quản 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên. Tỉnh An Giang ngày nay gần khớp với địa bàn hai huyện Đông Xuyên và Tây Xuyên xưa ( tức phủ Tuy Biên).

Năm 1835, Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang.

Năm Minh Mạng thứ 17 ( Bính Thân 1836), vua cho đạc điền lập địa bạ cả Nam Kỳ lục tỉnh. Địa bạ An Giang lần đầu tiên được xác lập ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836, ghi nhận lúc bấy giờ có 2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 167 làng.

Đến thời Tự Đức, sau nhiều lần tách nhập, thêm phủ, huyện, An Giang có 3 phủ, 10 huyện ( Đại Nam nhất thống chí liệt kê chỉ có 9 huyện).

b-Dưới chế độ thực dân Pháp (1867 – 1945):

Theo Nghị định ngày 05/01/1876 của Thống đốc Dupré, Pháp bỏ hệ thống Nam Kỳ lục tỉnh mà chia thành 4 khu vực : Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac ; bao gồm 19 hạt. Tỉnh An Giang (Nam kỳ lục tỉnh) được chia thành 5 hạt ( Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc), tỉnh Hà Tiên chia thành 2 hạt ( Hà Tiên, Rạch Giá). Khu vực Bassac (Hậu Giang) gồm 6 hạt: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Trà Ôn, Sóc Trăng, Rạch Giá (hạt Sa Đéc thuộc khu vực Vĩnh Long). Địa bàn An Giang ngày nay nằm trên 2 hạt Châu Đốc ( 10 tổng, 91 thôn) và  Long Xuyên ( 8 tổng, 55 thôn).
Theo Nghị định ngày 20/12/1899, Pháp  bãi bỏ các hạt đổi thành tỉnh.

Năm 1917, tỉnh Châu Đốc gồm 4 quận ( Châu Thành, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn) 12 tổng, 98 xã và tỉnh Long Xuyên gồm 3 quận ( Châu Thành, Thốt Nốt, Chợ Mới) 8 tổng, 58 xã. Tương ứng địa bàn An Giang ngày nay thì chỉ có 6 quận, 16 tổng, 116 xã. Năm 1930, tỉnh Châu Đốc nhận thêm quận Hồng Ngự, tỉnh  Long Xuyên vẫn như cũ.

c- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954):

Thời kỳ này, chính quyền tay sai tiếp tục duy trì các đơn vị hành chính như cũ. cả nước có 69 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1945, Nam kỳ có 21 tỉnh, trong đó tỉnh Châu Đốc có 5 quận là Tịnh Biên, Tri Tôn, Hồng Ngự, Tân Châu, Châu Phú và tỉnh Long Xuyên có 3 quận là Chợ Mới, Thốt Nốt, Châu Thành. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên gồm 5 quận ( thành lập thêm 2 quận Núi Sập và Lấp Vò), tỉnh Châu Đốc vẫn như cũ ( 5 quận).

Đêm 22/9/1945, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ được thành lập và cuộc Kháng chiến Nam Bộ bắt đầu. Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh thành lập các chiến khu trong toàn quốc. Tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc thuộc Khu 9.

Để thuận lợi trong việc lãnh đạo địa bàn kháng chiến, ngày 12/9/1947, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ra Chỉ thị số 50/CT phân chia lại địa giới 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc thành 2 tỉnh mới là Long Châu Tiền thuộc Khu 8 và Long Châu Hậu thuộc Khu 9. Ngày 06/3/1948, hai tỉnh  Long Xuyên và Châu Đốc tổ chức hội nghị để thực hiện chỉ thị trên.

- Tỉnh Long Châu Tiền có 5 quận là Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B ( An Phú ngày nay) và Lấp Vò.

- Tỉnh Long Châu Hậu có 6 quận là Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ là Long Xuyên và Châu Đốc).

Ngày 07/02/1949, tỉnh Long Châu Hậu giao quận Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ và ngày 14/5/1949, tỉnh Long Châu Tiền giao quận Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc.

Tháng 5/1949, tỉnh Long Châu Hậu tiếp nhận 3 xã Nam Thái Sơn, Bình Sơn và Thổ Sơn của quận Châu Thành (Rạch Giá) nhập vào quận Tri Tôn và tiếp nhận 2 xã Mỹ Hiệp Sơn (trừ 2 ấp Mỹ Phú, Mỹ Quới) và Tân Hội cùng 4 ấp của xã Tân Hiệp  nằm về phía Bắc lộ Cái Sắn vào quận Thoại Sơn.

Tháng 6/1949, chia quận Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền thành 2 quận mới là quận Phú Châu gồm 17 xã và quận Tân Châu gồm 10 xã.

Theo Nghị định 58/TTg ngày 30/10/1950 của Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đề nghị của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, 2 tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên được sáp nhập thành tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 quận : Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (quận Giang Thành và Châu Thành của Hà Tiên nhập lại, là huyện Hà Tiên ngày nay) và Phú Quốc. Tháng 7/1951, sáp nhập 2 quận Tri Tôn, Tịnh Biên thành quận Tịnh Biên ; 2 quận Châu Thành, Thoại Sơn thành quận Châu Thành.

Ngày 27/6/1951, theo Nghị định 173/NB51 của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, tỉnh Long Châu Sa được thành lập trên cơ sở nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Long Châu Tiền, gồm có 7 huyện : Châu Thành (Sa Đéc), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu và Chợ Mới. Lúc này, 2 huyện Hồng Ngự và Tân Châu của Long Châu Tiền chia ranh giới lại thành 2 huyện Tân Hồng và Tân Châu. Đến tháng 7/1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa.

Nghị định 252/NB51 ngày 12/10/1951 của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ chia liên khu Nam Bộ thành 2 phân liên khu: Phân liên khu Miền Đông gồm 6 tỉnh : Gia Định, Thủ Biên, Bà Rịa, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa và  Phân liên khu Miền Tây gồm 6 tỉnh : Bến Tre, Vĩnh Trà, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà. Hai tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Sa tồn tại đến năm 1954.

d- Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975):

Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận : Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự với 70 xã. Tỉnh Long Xuyên có 5 quận : Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt, Lấp Vò với 47 xã.

Ngày 22/10/1956, theo Sắc lệnh 143/VN của Ngô Đình Diệm, địa phận Nam Việt Nam gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Tỉnh An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên) gồm tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên cũ. Bấy giờ, An Giang có 8 quận ( Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập); với 16 tổng, 96 xã. Đến ngày 06/8/1957, thành lập quận An Phú từ 13 xã của quận Châu Phú.

Ngày 08/9/1964, theo Sắc lệnh 246/VN ( chính quyền Sài Gòn), tỉnh An Giang được tách thành 2 tỉnh : tỉnh Châu Đốc (5 quận, 10 tổng, 57 xã) và tỉnh An Giang (4 quận, 6 tổng, 38 xã). Tỉnh Long Xuyên cũ được đặt tên là tỉnh An Giang cho đến năm 1975.
Về phía chính quyền Cách mạng, tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ lập lại 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Tỉnh Long Xuyên gồm các quận : Châu Thành, Chợ Mới, Lấp Vò, Thốt Nốt, Phong Thạnh Thượng. Tỉnh Châu Đốc gồm các quận : Tân Châu, Hồng Ngự, Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú.

Theo sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, giữa năm 1957, tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc hợp nhất lại thành tỉnh An Giang, gồm 9 quận : Chợ Mới, Thốt Nốt, Núi Sập, Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn. Giao Hồng Ngự về tỉnh Kiến Phong và giao Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc.

Để đối phó với tình hình mới, tháng 10/1961, Tỉnh ủy An Giang quyết định thành lập các liên huyện Tịnh Biên - Tri Tôn lấy tên Tịnh Biên, liên huyện Châu Thành - Huệ Đức lấy tên Châu Thành, liên huyện Tân Châu - An Phú lấy tên Tân Châu. Cuối năm 1962, Tỉnh uỷ chỉ đạo tách liên huyện Tịnh Biên - Tri Tôn trở lại 2 huyện như trước.

Năm 1963, giao Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ và nhận thêm huyện Hà Tiên của tỉnh Kiên Giang. Tháng 12/1965, giao Chợ Mới về tỉnh Kiến Phong và năm 1967 trả Hà Tiên về tỉnh Kiên Giang .

Thực hiện yêu cầu của Trung ương cục về việc thành lập tỉnh mới giữ vai trò đầu cầu hành lang từ trung ương về miền Tây Nam Bộ, tháng 8/1971, An Giang chia thành 2 tỉnh An Giang và Châu Hà.

- Tỉnh An Giang gồm 5 huyện : Châu Phú, Châu Thành X, An Phú, Tân Châu, Phú Tân, bao gồm 2 nơi mà nay gọi là thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc.

- Tỉnh Châu Hà gồm 6 huyện : Tịnh Biên, Tri Tôn, Huệ Đức, Hà Tiên, Phú Quốc và Châu Thành A của tỉnh Kiên Giang.

Tháng 5/1974, Trung ương Cục chia lại địa bàn các tỉnh, tỉnh  An Giang, Châu Hà và Kiến Phong chuyển thành 2 tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà.

- Tỉnh Long Châu Tiền gồm 6 huyện : Tân Châu, An Phú, Phú Tân A, Phú Tân B, Hồng Ngự và Tam Nông (nay là Thanh Bình thuộc tỉnh Đồng Tháp).

- Tỉnh Long Châu Hà gồm có các huyện : Châu Thành X, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Huệ Đức, Châu Thành A (Rạch Giá), Phú Quốc và 2 thị xã Long Xuyên và Châu Đốc.

d-Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước ( từ 1975 đến 2000):

Những tháng đầu sau ngày giải phóng là thời kỳ quân quản. Khi có Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị, tỉnh An Giang được thành lập bao gồm tỉnh Long Xuyên và  tỉnh Châu Đốc cũ (trừ huyện Thốt Nốt). Tỉnh An Giang lúc này có 8 quận, 84 xã.

Tháng 2/1976, Nghị định của Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam giải thể khu hợp nhất tỉnh, bỏ danh xưng “quận” có từ thời Pháp và lấy lại danh xưng “huyện” ; “quận” và “phường” dành cho các đơn vị tương xứng với huyện và xã khi đã đô thị hóa. Tỉnh An Giang có 10 huyện, thị là : Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, thị xã Long Xuyên và thị xã Châu Đốc.

Ngày 11/3/1977, Quyết định 56/CP của Chính phủ hợp nhất huyện Huệ Đức và Châu Thành thành huyện Châu Thành, huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Bảy Núi.

Ngày 23/8/1979, Quyết định số 300/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh An Giang. Huyện Bảy Núi được chia thành 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Huyện Châu Thành chia thành 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn. An Giang có 8 huyện và 2 thị xã.

Ngày 13/11/1991. Quyết định số 373/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng chia huyện Phú Châu thành 2 huyện Tân Châu và An Phú.

Quyết định số 699/TTg ngày 12/11/1994 của Thủ tướng Chính phủ đã giải quyết việc xác định ranh giới hành chính giữa 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang.

Năm 1996, tỉnh An Giang hoàn thành việc giải quyết những tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính và thành lập bộ hồ sơ, bản đồ và mốc địa giới hành chính các cấp trong tỉnh theo Chỉ thị 364/CT ngày 06/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng, được tổ chức nghiệm thu ngày 02/5/1996 tại An Giang. Đây là bộ hồ sơ đầy đủ tính pháp lý, khoa học, thống nhất và đủ điều kiện đưa vào quản lý, khai thác sử dụng theo Nghị định 119/CP của Chính phủ.

Ngày 01/3/1999, Nghị định 09/NĐCP của Chính phủ thành lập thành phố Long Xuyên. Tỉnh An Giang hiện nay gồm các đơn vị hành chính trực thuộc là thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Tân Châu, An Phú,  Tri Tôn, Tịnh Biên; với 140 đơn vị hành chính cơ sở gồm 11 phường, và 11 thị trấn và 118 xã.

Đến năm 2010, tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện và 156 đơn vị hành chính cấp xã gồm 20 phường, 16 thị trấn, 120 xã.

4. Lịch sử định cư và phân bố dân cư

Lịch sử định cư của người Việt ở đất An Giang dưới thời phong kiến nhà Nguyễn


Người Việt bắt đầu đến vùng đất An Giang từ lúc nào thì cho đến nay chưa thấy sử sách ghi chép rõ ràng. Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian và một số vết tích còn lại đến ngày nay thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung vào đây từ rất lâu. Nhưng do điều kiện sống khắc nghiệt nên dân cư còn thưa thớt. Chỉ khi thấy khói vương toả qua cây lá chỗ nào thì mới biết có người ở nơi đó.

Cuộc sống của lưu dân bấy giờ luôn bị đe doạ:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
Sự lo âu khắc khoải lúc nào cũng canh cánh trong lòng:
Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh.

Mặc dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng người Việt vẫn kiên trì tìm đất sống. Họ ở rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.

Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt ở vùng Bình Mỹ (Châu Phú), vùng Châu Đốc và vùng cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng ngày nay). Tương truyền khi thuyền quân xuôi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh ghé lại những nơi có người Việt ở để thăm hỏi và khích lệ mọi người giữ tình thân thiện dù không cùng chủng tộc. Ông cũng cho phép một số binh phu được ở lại nơi này tìm đất cày cấy làm ăn. Họ sống rải rác theo ven sông ở vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu và Chợ Mới .

Lưu dân ở vùng Cù lao Ông Chưởng (An Giang) được gọi là dân “hai huyện” (Phước Long và Tân Bình). Họ được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, vẫn giữ được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt. Từ Chợ Mới đến Cái Hố theo lòng rạch Ông Chưởng, ta gặp một số gia đình cố cư, ông bà của họ đến cư ngụ nơi đây từ đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn (quá 6 đời).

Ở cù lao Giêng, có một địa danh xưa là bến đò Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của họ Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 7, thứ 8, cư ngụ kề nhau, đông đúc. Có thể nói đây là một trong những họ đến lập nghiệp đầu tiên trong vùng.

Điều đáng chú ý là người Việt đi vào phương Nam khai hoang lập nghiệp với cả gia đình cha mẹ, vợ con, chớ không đợi khi khá giả rồi mới về quê rước vợ con vào. Những người đã đến đây là không thể về, vì quá xa và ngoài đó ( Ngũ Quảng) điều kiện sống quá khó khăn, đói khổ, nên đành phải bỏ xứ.

Chính sách cưỡng bức di dân của chúa Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân của Nguyễn Phúc Chu mở ra từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII trên quy mô ngày càng lớn. Nhờ các chính sách của chúa Nguyễn mà công cuộc khai hoang và mở mang bờ cỏi phương Nam của dân Việt ngày càng nhanh chóng hơn.

Khi tỉnh An Giang mới được thành lập, dọc theo hữu ngạn sông Tiền, dân cư khá đông, tập trung ở cù lao Ông Chưởng. Một số thôn xã được thành lập. Riêng cù lao Giêng tuy không rộng lắm nhưng sanh kế dễ dàng, qui tụ được 4 thôn.

Phía hữu ngạn sông Hậu, dân cư thưa thớt. Từ biên giới Việt Miên xuống Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện Bình Thạnh Đông bây giờ), Bình Đức, Mỹ Phước. Hai làng Bình Đức và Mỹ Phước kề sát nhau, cách con rạch  Long Xuyên.

Vùng An Giang gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt :
- Phía Tân Châu, Ông Chưởng, Chợ Mới dễ canh tác, dân đông, làng cũ, vì đã lập từ lâu .
- Phía hữu ngạn sông Hậu, là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân thưa thớt, làng mới lập .

Hồi đầu thế kỷ XVII, phía sông hậu từ Châu Đốc xuống Năng Gù dân cư thưa thớt. Đầu nguồn, lòng sông hẹp, lượng nước phù sa không đủ sức tạo được giồng cao như sông Tiền. Chỉ có mấy khu vực cao ráo như khu chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái dầu...dân đến ở khá đông. Họ cất nhà sàn để ở, mùa nước nổi khai thác ác linh, làm lúa mùa, cuộc sống còn nghèo.

Từ xa xưa, chợ Thủ (huyện Chợ Mới) là một điểm dân cư tập trung bên cạnh điểm dân cư cù lao Giêng. dân cư đông đào, nhà cửa khang trang. Chùa miếu được xây dựng để làm nơi cầu nguyện, thờ phụng cho nhân dân trong vùng. Nghề thủ công phát triển từ lâu như nghề ươm tơ dệt lụa, nhất là nghề mộc của dân Chợ Thủ đã nỗi tiếng khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long và còn lưu truyền đến ngày nay. Dân cư ở những nơi này phát triển nhanh chóng. Từ đây, từng lớp lưu dân đã ổn định và bắt đầu phân tán đi khai phá các vùng đất mới khác trong vùng như:  Long Xuyên, Châu Đốc. Tân Châu...

Dần dần, dân cư đông đúc. Những nhóm quần cư lần hồi nâng lên thành các đơn vị nhỏ về hành chính là lân, phường, thôn, làng, hoặc những ấp đông đúc gọi là giáp (tương đương với làng). các vị trí then chốt về an ninh gọi là điếm. Dân mới đến chưa vào sổ bộ hoặc cư ngụ tạm thời thì gom lại lập đơn vị mới gọi là tứ chiếng thôn, tứ chiếng điếm.

Bấy giờ, số dân đứng tên chính thức trong bộ đinh của làng không cần nhiều, chừng chục người hoặc ít hơn, nếu chịu trách nhiệm đóng thuế với quan trên thì việc đăng ký thành lập làng được thừa nhận ngay. dân đứng tên trong bộ ở làng chỉ gồm điền chủ lớn, nhỏm trung nông, thương buôn. Tá điền và lớp nghèo thành thị có quyền không ghi tên vào sổ bộ, sống theo quy chế dân ngoại, dân lậu tuỳ thích. Nhưng đã là dân lậu, họ không được vào ban hương chức hội tề, không được dự tiệc đình làng, không được kiện cáo bất cứ ai khi bị ức hiếp và nếu bị tố cáo dẫu là oan ức thì họ cũng bị xem là có lỗi. Lực lượng di dân này sống rày đây ,ai đó, làm ruộng, làm mướn, thay đổi nơi cư trú luôn. Có thể lúc đó vùng đất này tương đối dễ sống, đất ruộng hoang vu còn nhiều chỗ dung thân, nên nơi này sống không được, họ bỏ đi nơi khác. Họ có thể thay đổi ngành nghề nhanh chóng như làm ruộng chuyển sang đánh bắt cá, hoặc chuyển sang nghề gỗ, đốn củi.

Việc di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu, bắt đầu từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ, nhiều nhà cửa của nông dân đã được dựng lên, các đình chùa cũng bắt đầu được xây cất.

Năm 1818, được lệnh Triều đình, Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào kênh Đông Xuyên ra đến Rạch Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang 2 bên bờ con kênh.

Năm 1821, khi Thoại Ngọc Hầu đến thủ đồn Châu Đốc, ông tiếp tục cho di dần lập ấp, xây dựng nhiều làng người Việt ở đây. Những nơi cỏ cây rậm rạp, đều được ông khuyến khích dân khai phá. Trong bia Vĩnh Tế Sơn còn ghi "Lão thần Thoại Ngọc Hầu...muốn nơi đồng hoang bát ngát này trở thành làng mạc trù phú, yên vui, dân cư đông đúc, xùm vầy".

Đào kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam mà trước kia phải đi bộ hoặc đi đò chèo. Từ đó, ngựa xe qua lại dễ dàng, đường cao khoảng 3 mét để ngừa nước lụt, cho dựng bia " Châu Đốc tân lộ kiều lương" (1828). Dân cư nhờ đó mà từ Châu Đốc vào Núi Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến vô khai phá đến vùng Tịnh Biên .

Lúc bấy giờ, trên cánh đồng An Giang rộng lớn và hoang vu, hàng năm đều ngập trong nước lũ nhiều tháng trời, mạng lưới sông rạch tự nhiên rất nhiều. Đường bộ hầu như chưa có, đường thuỷ là tuyến giao thông gần như duy nhất trừ vùng Bày Núi. Cho nên dân cư sinh sống dọc theo các con kênh và bờ sông là điều tự nhiên. Đây là các tuyến chủ yếu tiếp nhận di dân. Lúc đầu, chỉ mới hình thành những tuyến mỏng, dọc ven theo kênh rạch. Khi dân cư đông hơn, họ ở có dạng quây quần chớ không còn đơn thuần theo tuyến dọc nữa. Trong bước đầu đến khai hoang vùng đất An Giang, sự phân bố dân cư nơi đây đã diễn ra một cách tự phát theo lối đất lành chim đậu, nơi nào dễ làm ăn thì dân cư sẽ qui tụ lại ở thành xóm làng. Ngoài ra, một số người có trình độ và có tiền của đứng ra chiêu dân lập làng để khai phá thêm các vùng đất mới còn hoang vu. Các vùng mới khai phá, dân cư quần tụ lại cất nhà kề nhau quay mặt ra sông, sau nhà là vườn, sau vườn là ruộng đồng bát ngát, xa nữa là đồng cỏ và rừng cây hoang vu, có nghĩa là ai có sức lao động và có vốn, thì có thể vỡ hoang đến đâu cũng được và không phải tranh giành với ai. Những nơi giáp nước hoặc ngã ba, ngã tư sông, dân cư thường tập trung ở đông đúc, dần dần hình thành nên quán xá, hiệu buôn, chợ búa để trao đổi mua bán, trên bến dưới thuyền.

Đầu thế kỷ XIX, đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nhất. Năm 1833, giặc Xiêm xâm lăng, tàn phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn luôn qua cả Tân Châu. Nhưng chỉ 5 năm sau (1838), dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác từ núi Sam dọc theo 2 bờ kênh Vĩnh Tế qua phía Hà Tiên .

Vùng Châu Đốc là biên cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại xâm. Mỗi người dân khẩn hoang quả là một lính thú vô danh nơi biên cương xa xôi này. Trong Gia Định Thành thông chí, danh mục thôn xã không ghi lại làng nào ở vùng "Châu Đốc Tân Cương", chỉ xác nhận từ biên giới đến biển Đông thành lập vỏn vẹn được một huyện là huyện Vĩnh Định với 27 thôn, chạy suốt theo hữu ngạn Hậu Giang, với lời giải thích " Huyện Vĩnh Định tuy rộng nhưng dân cư chưa đông nên chưa chia ra thành tổng". Một huyện mà chỉ có 27 thôn là quá ít, nếu so với các huyện đương thời như huyện Tân An (135 thôn), huyện Kiến Hoà (151 thôn).

Gia tộc Lê Công gốc Thanh Hóa là một trong những nhóm di dân đến khai phá vùng Châu Đốc (khoảng năm 1785 – 1837). Hiện con cháu đời thứ 7 còn sống và cư ngụ ở đây.

Một gia tộc thứ 2 cũng đã có công khai phá vùng Châu Đốc hoang sơ buổi ban đầu là dòng Nguyễn Khắc, thuộc dòng con cháu của Nguyễn Văn Thoại. Hiện nay, gai đình cháu đời thứ 7 của ông vẫn còn cư ngụ tại thị xã Châu Đốc.

Thời Gia Long, Minh Mạng, dân cư vùng An Giang còn ít, nhiều đất hoang chưa có người khai thác. Dân xã, thôn ghi vào bộ đinh là đàn ông, không ghi đàn bà, trẻ con. Để thành lập một xã chỉ cần vài người dân đinh đứng đơn, bảo đảm với triều đình về nghĩa vụ thuế đinh, thuế điền. Người xin lập làng được quan phủ cấp cho con dấu nhỏ, bằng gỗ ( dân quen gọi là con mộc). Những người đi khai phá đến sau, phần lớn là dân nghèo, dân lậu, xin khai khẩn vùng đất gọi là " hoang nhân chi địa" (đất chưa khai phá).

Dưới đời Minh Mạng, tội phạm lưu đày phần lớn gom về vùng Vĩnh Tế để lập các xóm dọc bờ kênh, dần dần hình thành nên các vùng dân cư. Nguyễn Tri Phương khi làm kinh lược sứ ở miền Nam, đã có sáng kiến lập đồn điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung vùng Châu Đốc và Hà Tiên, đặc biệt là ở vùng Vĩnh Tế.

Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đã thành lập được 21 cơ đồn điền. Hai năm sau, tỉnh An Giang và Hà Tiên đã chiêu mộ được 1.646 dân đinh, lập 159 thôn ấp . Trong thời gian này, người Chăm ở ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong) cũng gom lại từng đội, do 1 viên hiệp quản đứng đầu. Từ bên Chân Lạp, người Chăm rút về, nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc nội chiến bên Chân Lạp, rồi định cư luôn ở Việt Nam (Tân Châu, An Phú ngày nay).

Song song đó, người theo đạo Thiên Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn từ miền ngoài đến khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng Gù (1845) đã làm tăng thêm dân số vùng đất An Giang ngay từ buổi đầu.

Về nguồn gốc các dân tộc, các tư liệu trước đây ghi nhận như sau:

- Người Khmer: Đây là dân bản địa kỳ cựu, hầu hết đều sinh đẻ ở Việt Nam nên gọi là người Việt gốc Khmer, tập trung nhiều nhất ở các quận Tri Tôn và Tịnh Biên. Phong tục và tiếng nói của họ cũng không khác người Khmer ở chính quốc. Họ rất sùng bái đạo Phật, tôn kính các sư sãi và sẵn sàng dâng cúng cho chùa những hoa lợi do họ cực nhọc làm ra để mong được phước cho kiếp sau.

- Người Chăm và người Mã Lai đến sinh cư lập nghiệp hẳn ở vùng Châu Đốc từ năm 1840. Trước kia, họ sống ở Cao Miên.

Người Chăm Châu Giang rất siêng năng, tiết kiệm. Nhà cửa thường cất tương tự kiểu Cao Miên, sàn cao, cách mặt đất từ 1 thước rưỡi đến 2 thước. Họ đoàn kết với nhau rất chặt chẽ, nên ít khi bị bọn trộm cướp dám quấy phá.

- Người Hoa: Theo dụ số 48 ngày 21/8/1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm sửa đổi bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, thì những người Hoa sinh đẻ tại Việt Nam kể như dân Việt Nam. Họ cũng lãnh thẻ kiểm tra nhập Việt tịch. Người Hoa sinh sống bằng nghề buôn bán ở thành thị cả ở thôn quê.

Để củng cố công tác quản lý hành chính, kiểm tra và khuyến khích dân cư đến lập nghiệp vùng hoang địa, nhà Nguyễn cho tiến hành lập làng, nhất là vùng biên cương như Châu Đốc. Thủ tục xin lập làng tương đối dễ. Do đó, trước năm 1831, lưu dân đã thành lập làng An Nông. Đến tháng 3-1831, làng An Nông từ núi Chân Tầm Lon tới núi Tà Béc còn nhiều đất hoang, một nhóm dân cư xin lập làng Phú Cường tách ra từ làng An Nông, gồm 15 người đến ở ( chỉ tính đàn ông)...

Gia Định Thành thông chí cũng có ghi sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống vùng Bảy Núi để tu hành, khai thác nguồn lợi thiên nhiên, không làm giàu nhưng có thể sống qua ngày. Họ lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa, sống hoà nhập với người Khmer. Sau khi thành lập địa bộ, dân cư trong vùng đã lập được nhiều thôn theo bờ kênh Vĩnh Tế như Vĩnh Tế Sơn thôn, Nhơn Hoà, An Qui, Thần Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Toàn Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc. Phần lớn diện tích được trồng khoai, trồng đậu, trong bộ điền gọi là vu đậu thổ (đất trồng hoa màu).

Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), quan Tổng trấn Gia Định tâu: " Đồn Châu Đốc mới lập được 41 làng, dân đinh chỉ hơn 800 người". Như vậy, nếu  kể cả dân lậu, phụ nữ và trẻ em trong làng thì dân cư Châu Đốc lúc đó có thể lên đến vài ngàn.

Đơn vị hành chính nhỏ nhất lúc bấy giờ là xã (thôn). Làng xã thời trước lập ra không cần dân số đông mà chỉ chú trọng vào số thuế đóng của những người đứng tên cam kết sẽ nộp. Từ các làng này mới thu hút nhiều lưu dân đến sinh sống, như làng Phú Cường. Năm Tự Đức thứ 10 (1857), làng Châu Phú vẫn còn nhiều ruộng chưa khẩn, có 2 người dân đinh đứng tên xin thành lập làng gọi là làng Châu Quới, tách từ làng Châu Phú ra, sau đó thu hút được thêm 5 người dân lậu.

Triều đình nhà Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố biên giới phía Nam, "vì địa thế Châu Đốc, Hà Tiên cũng không kém Bắc Thành" ( Vua Gia Long). năm 1830, vua Minh Mạng phán cho bộ Hộ rằng: "Đồn Châu Đốc lúc đó chưa có tỉnh là vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý niệm quan trọng của ta trong vấn đề củng cố biên cương". Buổi đầu, việc khai khẩn còn khó khăn, thuế khoá đã được miễn nhiều lần. Trong thực tế triều đình đã dùng nhiều biện pháp để chiêu dụ, thu nạp dân, để cho đồng áng ngày càng mở mang, cuộc sống người dân càng được nâng lên.

Như vậy, đến khai phá đất An Giang, ngoài dân lưu tán tự phát vào khai khẩn, còn có một bộ phận dân hưởng ứng chính sách khuyến khích khai hoang của nhà Nguyễn nên số lưu dân đến tăng lên khá nhanh. Một thuận lợi cho An Giang nữa là lúc đó miền Long An, Mỹ Tho đất tốt hầu như không còn cho dân khai khẩn, nên dân di cư tràn xuống miền sông Hậu, đến khai phá cánh đồng hoang vu mênh mông ở tỉnh An Giang.

Vào nửa sau thế kỷ XIX, nhất là sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, chế độ đồn điền trì trệ. Quân lính trong các đồn điền chuyển sang chiến đấu chống Pháp, nhà Nguyễn buộc phải chuyển sang hình thức doanh điền tiến hành thực hiện ở các tỉnh. Các nhà doanh điền ở An Giang và Hà Tiên được thành lập. Đến năm 1866, doanh điền sứ An Giang- Hà Tiên là Trần Hoàn báo cáo đã mộ được 1.646 dân đinh, thành lập 149 thôn, khẩn được 8.333 mẫu ruộng.

Đến An Giang, còn có những người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Lực lượng này gồm dân các tỉnh chung quanh (Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long) theo về với đạo, phần lớn tập trung khai phá vùng Thất Sơn rừng núi hoang vu.

Như vậy, các luồng di dân vào An Giang chủ yếu là người miền Trung, thường gọi là dân Ngũ Quảng. Các luồng di dân khác từ một số tỉnh như Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho...đến khai khẩn đất hoang theo bờ các kênh xáng mới đào.

Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, rồi năm 1867 chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây.

Theo thống kê sơ bộ do y sĩ người Pháp Vantalon ghi lại trong chuyến đi trồng trái ( chủng đậu) năm 1881, dân số  Long Xuyên là 88.631 người, Châu Đốc là 105.182 dân, phần lớn tập trung ở phía sông Tiền vùng Tân Châu, Chợ Mới.

Nhân cơ hội Kinh lực xứ Nam kỳ là Nguyễn Tri Phương khuyến khích việc chiêu mộ dân đến khai hoang vùng biên giới, giao phái Bửu Sơn Kỳ Hương đưa người đến khẩn hoang vùng Thất Sơn, Láng Linh, Cái dầu và bên bờ sông Tiền.

Năm 1851, ông Đoàn Minh Huyên chia nhiều đoàn tín đồ đi khai khẩn:

- Đoàn thứ nhất vào Thất Sơn, bên chân núi Két, một nơi còn hoang vu. Đoàn chia làm hai nhánh, một do cụ Bùi Văn Thân, tức tăng chủ Bùi Thiền Sư hướng dẫn; và một đoàn do cụ Bùi Văn Tây, tức Đình Tây  chỉ huy, cùng nhau góp sức lập nên các trại ruộng Hưng Sơn và Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh Biên).

- Đoàn thứ hai do cụ Quản cơ Trần Văn Thành dẫn dắt. Đoàn này đến Láng Linh, một vùng đầm lầy, thuộc huyện Châu Phú.

- Đoàn thứ ba do cụ Nguyễn Văn Xuyến tức "Đạo Xuyến" đưa tín đồ về Cái Dầu (Bình Long) thuộc huyện Châu Phú ngày nay.

An Giang còn là nơi quy tụ những đoàn người theo đạo hoặc núp dưới ngọn cờ tôn giáo để kháng chiến chống thực dân Pháp.

Cụ Ngô Lợi, người khởi xướng Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, cũng đã đưa hàng trăm lượt tín đồ từ khắp nơi về vùng núi Tượng lập làng An Định, di dân mở đất khai hoang vùng biên giới...

Trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ (từ 1880 đến 1937), qua chính sách khai hoang và đào kênh của thực dân Pháp ở ĐBSCL, tình hình dân số và ruộng đất có sự thay đổi lớn... Theo Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1847 tỉnh An Giang, số đinh theo báo cáo của Bộ Hộ có 22.998 người (cả nước Việt Nam khi đó số đinh chỉ có 1.024.388 người).

Đến năm 1930, chấm dứt các chính sách di dân khẩn hoang vào miền Nam mói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Qua số liệu Niên giám thống kê của Pháp năm 1921, dân số 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cộng lại đông đứng thứ nhất Đồng bằng sông Cửu Long.

Đây là điều phải lưu ý vì Long Xuyên và Châu Đốc là vùng đất "sinh sau đẻ muộn" so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

Khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, dân số  Long Xuyên và Châu Đốc có 550.000 người; trong đó  Long Xuyên 280.000 người và Châu Đốc 270.000 người với 20 tổng và 120 làng.

Phân bố dân cư thời gian này có thể chia thành 3 vùng: vùng giữa sông Tiền và sông hậu dân cư đông đúc; còn vùng tả ngạn sông Tiền và hữu ngạn sông Hậu dân cư thưa thớt, sống rải rác dọc theo các bờ kênh như kênh Bốn Tổng, kênh xáng Vịnh Tre, kênh Mạc Cần Dưng...

Trước sự đàn áp dã mang của thực dân Pháp, một bộ phận đồng bào ta với ý chí căm thù giặc sâu sắc, đã bỏ vùng tạm chiếm, kéo vô vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới theo quân giải phóng. Ngoài nông dân, còn có những nhà tư sản, trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh theo về với cách mạng, họ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống thành thị, thoát ly gia đình, chấp nhận cuộc sống gian khổ để đi theo cách mạng cứu dân, cứu nước. Dân cư trong vùng được cách mạng cấp đất để tăng gia sản xuất, và một việc có ý nghĩa to lớn là đời sống của người dân không còn bị bọn ác ôn làng xã, địa chủ áp bức, bóc lột. Mọi hình thức tô tức bị xoá bỏ, nhân dân được yên tâm sản xuất.
Tỉnh An Giang lúc đó gồm Long Xuyên và Châu Đốc, bao gồm luôn một phần của tỉnh Đồng Tháp ngày nay, nên diện tích rất lớn mà chỉ có khoảng nửa triệu dân. Vì vậy dân cư rất thưa thớt cả trong vùng địch tạm chiếm và vùng giải phóng, ngoại trừ các khu vực thành thị và tụ điểm dân cư lớn.

Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954- 1975)

Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết. Thi hành Hiệp định, một bộ phận lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng vũ trang, bán vũ trang và cán bộ ( lúc đó là 2 tỉnh Long Châu Sa và Long Châu Hà) tập kết ra Bắc.

Dân số  Long Xuyên và Châu Đốc năm 1954 có khoảng 536.000 người, đến năm 1975 ( tức 21 năm sau) đã tăng lên 1.360.000 người.... Phân bố dân cư trong giai đoạn này có sự chênh lệch rất lớn về mật độ dân số giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng ngoài và vùng sâu, thậm chí ngay trong một huyện cũng có sự chênh lệch, nhất là trong những năm chiến tranh ác liệt, dân chúng phải co cụm lại để bảo vệ, đùm bọc nhau

Dân cư phân bố chủ yếu tập trung dọc sông Tiền và sông hậu, từ Tân Châu xuống Chợ Mới và từ Châu Đốc xuống  Long Xuyên. Vùng bảy Núi có dân Khmer sinh sống theo các phum sóc rải rác quanh chân núi và các cánh đồng gần núi./Dân tộc Chăm sống tập trung vùng An Phú, Tân Châu, đối diện Châu Đốc ở khu vực Cồn Tiên, Đa Phước ngày nay. Ở các vùng sâu, dân cư rất thưa thớt, nhất là lũng phèn vùng tứ giác.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến nay

Sau ngày giải phóng, nhân dân trở về quê cũ sửa sang và tạo dựng lại nhà cửa, ruộng vườn đã bị đạn bom tàn phá bao năm qua, nhất là ở các vùng sâu, vùng giải phóng. Nhân dân ra sức đầy mạnh sản xuất, đời sống được cải thiện dần, mức sống cao hơn trước; ở các vùng dân tộc, mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Các cánh đồng lúa được mở ra nhất là vùng các huyện phái Tây sông Hậu, mạng lưới thuỷ lợi đã được triển khai  đào vét khắp cánh đồng, đem phù sa vào đồng ruộng và xổ phèn, làm cho đồng ruộng càng thêm phì nhiêu, lúc thóc đầy bồ, nhân dân vô cùng phấn khởi.

Tỉnh kết hợp việc mở mang thuỷ lợi và đê bao chống lũ dài 3.800 km với việc bố trí lại dân cư. Gần 10.000 hộ ở rải rác trong vùng ngập lũ, trong đó tỉnh cho xây dựng 84 cụm dân cư và 35 tuyến dân cư với chiều dài gần 100 kim, không còn phải lo cảnh chạy lụt hàng năm. Phân bố dân cư lúc này tương đối đều khắp trong toàn tỉnh. Các vùng giải phóng, vùng sâu, vùng núi đã có dân về sống nhiều, xóm làng được ổn định. Vài năm đầu sau giải phóng, dân cư hồ hởi vui mừng, dựng vợ gả chồng nhiều và nhất là vợ chồng được sum vầy sau bao năm xa cách nên tốc độ phát triển dân số thời gian này tăng khá nhanh; tuy nhiên về sau, tốc độ tăng dân số giảm dần, đạt yêu cầu giảm tỉ lệ tăng dân số của tỉnh.

Suốt hàng trăm năm ra sức khai phá vùng đất An Giang hoang vu này, lưu dân, bằng bàn tay và khối óc, bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu nữa, họ đã biến miền đất hoang sơ thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phường đông đúc, mở mang một vùng đất biên giới Tây Nam mênh mông trở nên giàu đẹp. Công đầu của cuộc mở mang bờ cỏi này là thuộc về các lưu dân ngày xưa, đã không quản ngại hy sinh gian khổ cho đất nước được rộng lớn thêm, cho con cháu sau này được hưởng một vùng đất phù sa màu mỡ, đảm bảo cuộc sống ấm no muôn đời về sau.
 
Theo angiang.gov.vn

Có thể bạn quan tâm