Vĩnh Long nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer (Bài 2)

Vợ chồng ông Sơn Xâm, xã Đông Bình (thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) thu hoạch bông súng để tăng thu nhập. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN
Vợ chồng ông Sơn Xâm, xã Đông Bình (thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) thu hoạch bông súng để tăng thu nhập. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Tỉnh Vĩnh Long hiện có trên 25.000 người dân tộc Khmer sinh sống chủ yếu ở huyện Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm và thị xã Bình Minh. Toàn tỉnh có 2 xã thuộc khu vực đặc biệt khó khăn là xã Tân Mỹ (huyện Trà Ôn) và xã Loan Mỹ (huyện Tam Bình). Thời gian qua, tỉnh đã tập trung nguồn lực và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách nhằm chăm lo đời sống đồng bào dân tộc, qua đó giúp nhiều hộ đồng bào Khmer có nhà ở ổn định, tiếp cận nguồn vốn, khoa học kỹ thuật. Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam giới thiệu bài 2 trong chùm bài nói về đời sống đồng bào dân tộc Khmer được nâng cao tại nơi đây.

Bài 2-  Phum sóc đổi mới

Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập người dân, tỉnh Vĩnh Long còn đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm thay đổi diện mạo vùng nông thôn của đồng bào Khmer. Nhiều phum sóc trước đây giờ phát triển thành xã nông thôn mới, trong đó cũng có những đóng góp rất lớn từ chính đồng bào vùng dân tộc Khmer.

Đổi thay trên những vùng đất khó

Đời sống đồng bào Khmer từng bước được nâng lên chính là điều kiện thúc đẩy bộ mặt nông thôn thêm khởi sắc. Đến các phum sóc ngày nay không còn khó khăn như những năm trước. Hệ thống giao thông nông thôn được xây dựng thông thoáng, cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp, nhiều ngôi nhà kiên cố mọc lên góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn.

Tuyến đèn đường ấp Cần Thay, xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn vừa được đưa vào sử dụng nhân dịp lễ Sen Dolta năm 2020 đã làm nhiều người dân phấn khởi. Ông Thạch Ương, xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn nói: "Những năm trước tuyến đường này đi lại rất khó khăn. Giờ chính quyền làm đường, lại còn có đèn thắp sáng nên nhân dân rất mừng. Có đường đàng hoàng, thương lái vô tận vườn thu mua nông sản nên bà con ít bị ép giá. Hơn nữa, có đèn đường thắp sáng thì việc đi lại thuận tiện an toàn hơn trước, đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương".

Cùng với việc đầu tư hạ tầng giao thông, chính quyền địa phương cũng quan tâm đầu tư xây dựng trường học, trạm y tế… vừa tăng cường diện mạo nông thôn vừa đáp ứng nhu cầu học tập và chăm sóc sức khỏe của người dân đồng bào Khmer.

Vĩnh Long nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer (Bài 2) ảnh 1Giờ học Tin học của học sinh trường Tiểu học Thạch Thia, xã Loan Mỹ (Tam Bình, Vĩnh Long). Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Đến xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình nhiều người ấn tượng với Trường Tiểu học Thạch Thia - ngôi trường khang trang được đầu tư để phục vụ nhu cầu học tập của phần lớn học sinh dân tộc Khmer nơi đây. Trường hiện có 613 học sinh, trong đó có 484 học sinh người dân tộc Khmer, chiếm 80% trên tổng số học sinh. Trong ngôi trường này, học sinh không chỉ được học Tiếng Việt, mà còn được học tiếng Khmer, được học môn Tiếng Anh từ lớp 1. Anh Thạch Chanh Răng Xây ở xã Loan Mỹ có hai con đang học ở trường cho biết: “Ngày xưa, tôi muốn học chữ dân tộc thì phải vào chùa học mỗi kỳ nghỉ hè. Giờ con được học chữ trong nhà trường để giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc thì rất hay. Không chỉ vậy, các cháu còn được rèn tiếng Việt, tiếng Anh để có thể giao tiếp và theo kịp bạn bè. Đây là những kiến thức cần thiết để các cháu trong những năm tiếp theo”.

Theo Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Long, những năm qua, nhờ các chương trình, dự án của Trung ương và của tỉnh, đời sống người dân vùng dân tộc thiểu số nói riêng từng bước được nâng lên đáng kể, hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn được quan tâm, ưu tiên đầu tư và đã tạo ra bước đột phá đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer giảm bình quân hàng năm từ 3-4%; hiện nay toàn tỉnh còn 684 hộ dân tộc Khmer nghèo. Giáo dục tại vùng đông đồng bào Khmer được đầu tư, tổng số học sinh các cấp được đến trường đạt tỷ lệ 98%. Mạng lưới y tế triển khai trực tiếp đến các xã vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân, hiện 100% hộ nghèo đồng bào Khmer được cấp thẻ bảo hiểm y tế.

Chung tay xây dựng nông thôn đổi mới

Nhờ các chính sách hỗ trợ tạo động lực, nhiều hộ Khmer đã mạnh dạn thay đổi tập quán sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, từ đó phát triển thành công nhiều mô hình kinh tế gia đình hiệu quả. Các hộ dân còn tích cực đóng góp ngày công, tài sản để cùng với chính quyền xây dựng nông thôn mới, làm thay đổi dần bộ mặt phum sóc.

Những năm qua, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình đã vận động chuyển đổi diện tích đất sản xuất lúa không hiệu quả phát triển kinh tế vườn được 60,8 ha, phát triển được nhiều mô hình kinh tế mang lại hiệu quả khá tốt, tăng giá trị lợi nhuận gấp 3 lần trồng lúa, tăng thu nhập bình quân 41,7 triệu đồng/năm. Điển hình như hộ ông Thạch Của, xã Loan Mỹ, bên cạnh trồng lúa ông còn học hỏi, ứng dụng khoa học kỹ thuật nuôi lươn sinh sản và thương phẩm ở thời điểm mô hình này còn mới mẻ ở địa phương. Nhờ chịu khó học hỏi, ông thu được hiệu quả khá, nhờ vậy mà không chỉ trả hết nợ vay ngân hàng, ông còn mua thêm 3.000 m2 đất để mở rộng quy mô chăn nuôi theo chuỗi khép kín: bò, trùng quế, lươn và cá để tận dụng nguồn thức ăn, giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận.

Bên cạnh việc chăm lo đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao thu nhập ở vùng có đồng bào Khmer sinh sống, chính quyền địa phương cũng tăng cường tuyên truyền, vận động để phát huy nội lực, huy động sức dân cùng tham gia xây dựng nông thôn mới, tạo diện mạo các phum sóc thêm khởi sắc. Đời sống được nâng lên, đồng bào Khmer phấn khởi và tự nguyện hiến đất, hoa màu, kiến trúc, góp ngày công lao động để tạo vẻ mỹ quan cho địa phương.

Bí thư Huyện ủy Tam Bình Lê Tiến Dũng cho biết, thông qua công tác tuyên truyền, vận động, nhận thức, trách nhiệm của người dân đã được nâng cao, nhất là đồng thuận, tự giác đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc, đoàn kết cùng địa phương tập trung thực hiện đạt 14/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Giai đoạn 2015-2020, nhân dân hiến đất, vật kiến trúc, hoa màu để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phục vụ sản xuất và sinh hoạt; hệ thống giao thông nông thôn được tập trung đầu tư thực hiện với hơn 40.348m đường, kinh phí hơn 40 tỷ đồng.

Tại xã Đông Bình, thị xã Bình Minh, năm 2017, địa phương được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Có được thành tích này là nhờ sự chung tay nỗ lực của chính quyền địa phương cùng nhân dân, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc Khmer.

Ông Sơn Xâm, xã Đông Bình, thị xã Bình Minh cho biết, năm 2017 khi gia đình vẫn còn nhiều khó khăn nhưng khi được sự vận động của địa phương, ông quyết định hiến 1.000m2 đất để làm đường liên ấp. Đường sá được xây dựng khang trang, xe đi lại thông thoáng nên việc lưu thông, mua bán hàng ngày của người dân cũng dễ dàng. Không chỉ cùng nhau hiến đất làm đường, giờ đây khi tuyến đường đã hoàn thành, hàng ngày ông vẫn cùng nhiều hộ dân tích cực chăm chút các hàng rào, đường hoa ngay trước cổng nhà để giữ cảnh quan môi trường sạch đẹp. Hơn hết, họ tự thân chăm lo sản xuất để ổn định kinh tế gia đình, giúp địa phương giữ vững tiêu chí thu nhập trong xây dựng nông thôn mới.

Vĩnh Long nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer (Bài 2) ảnh 2Vợ chồng ông Sơn Xâm, xã Đông Bình (thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) thu hoạch bông súng để tăng thu nhập. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Ông Vi-Ti-Va-Lây, Bí thư, Trưởng ấp Phù Ly 1, xã Đông Bình cho biết, mặc dù những năm địa phương tập trung xây dựng nông thôn mới, đời sống người dân vẫn còn nhiều khó khăn nhưng gần 20 hộ dân của ấp vẫn tích cực đã hiến đất, đồng thời đóng góp ngày công để cùng địa phương hoàn thành tuyến đường. Giờ đây đường thông thoáng, có thêm đèn thắp sáng nên người dân càng mừng hơn.

Tính đến nay, 8 xã thuộc vùng dân tộc thiểu số của tỉnh đã thực hiện đạt bình quân 14,6 tiêu chí/xã trong xây dựng nông thôn mới, trong đó có 2 xã đã đạt chuẩn nông thôn mới và 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Long Thạch Dương cho biết, để đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới trong đồng bào dân tộc Khmer, trong thời gian tới, Ban dân tộc tỉnh phối hợp với các địa phương có đông đồng bào Khmer sinh sống tuyên truyền sâu rộng nhằm nâng cao ý thức của đồng bào Khmer hiểu được ý nghĩa việc xây dựng nông thôn mới. Song song đó, Ban phối hợp với các địa phương, đoàn thể xây dựng nhân rộng các mô hình điện thắp sáng, trồng hoa và các mô hình phát triển kinh tế để nâng cao mức sống người dân, góp phần thực hiện và giữ vững các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. (Còn tiếp)

Lê Thúy Hằng

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm