Về Prăng dự Lễ cúng sân của người Bahnar

Người Bahnar rộn ràng tổ chức lễ cúng sân tại làng Prăng, xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro (Gia Lai). Ảnh: Quang Thái
Người Bahnar rộn ràng tổ chức lễ cúng sân tại làng Prăng, xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro (Gia Lai). Ảnh: Quang Thái

Lễ cúng sân theo tiếng Bahnar là Sơmă Kơcham. Đây là lễ cúng lớn trong năm của người Bahnar ở các buôn, làng đầu nguồn dòng suối Hway xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro (Gia Lai) nhằm tưởng nhớ những người đã mất, cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.

Về Prăng dự Lễ cúng sân của người Bahnar ảnh 1Người Bahnar rộn ràng tổ chức lễ cúng sân tại làng Prăng, xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro (Gia Lai). Ảnh: Quang Thái

Để chuẩn bị lễ cúng, 2 cây Nêu được dựng lên tại sân nhà Rông, bên dưới là 2 ghè rượu to, 2 xiên thịt nướng, 3 nồi thịt hầm. Hội đồng già làng gồm 9 người đứng quanh cây Nêu. Đội cồng chiêng "nhí" và thanh niên vào hàng ngũ chỉnh tề. Khi các già làng bắt đầu đọc bài cúng cũng là lúc tiếng trống, chiêng nổi lên rộn rã. 5 già sẽ dâng lễ lên Yàng, 4 già còn lại sẽ khấn nguyện, mời lễ những người đã khuất. Trong lúc đó, đội chiêng và đội xoang cùng diễn tấu quanh sân nhà Rông. Kết thúc lễ cúng, Hội đồng già làng nhấp những ngụm rượu đầu tiên trong hàng dài ghè mà dân làng đem đến góp lễ. Sau đó, mọi người cùng thực hiện nghi thức tương tự với ước vọng về một năm mới, mùa mới thuận lợi, an lành.

Về Prăng dự Lễ cúng sân của người Bahnar ảnh 2Hội đồng già làng của làng Prăng gồm 9 thành viên uy tín đứng ra làm lễ cúng sân. Ảnh: Quang Thái
Về Prăng dự Lễ cúng sân của người Bahnar ảnh 3Đội xoang nữ của làng Prăng diễn tấu quanh sân nhà Rông. Ảnh: Quang Thái

Qua năm tháng, các buôn làng Bahnar dần đổi thay. Tuy nhiên, những nghi lễ truyền thống, đặc sắc vẫn được đồng bào giữ gìn và phát huy, góp phần tăng tình đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, cùng ước vọng về một cuộc sống no ấm và đủ đầy.

Quang Thái

(DTMN)
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm