Văn hóa độc đáo của người Cờ Lao ở Túng Sán

Văn hóa độc đáo của người Cờ Lao ở Túng Sán
Túng Sán là xã vùng sâu của huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang), cách trung tâm huyện lỵ 22 km. Phía Đông giáp huyện Vị Xuyên, phía Nam giáp xã Bản Nhùng, phía Bắc giáp xã Thèn Chu Phìn và phía Tây giáp xã Tân Tiến của huyện Hoàng Su Phì. 
Toàn xã có 8 thôn, với 6 dân tộc cùng sinh sống, gồm: Dao, Mông, Cờ Lao, Nùng, Hoa, La Chí; trong đó dân tộc Cờ Lao chiếm đa số, với 198 hộ, 984 khẩu, chiếm 45%, tập trung ở các thôn: Tả Chải, Khu Trù Sán, Túng Quá Lìn. Hiện nay, nhóm Cờ Lao ở xã Túng Sán có 4 họ là: Họ Min, họ Sú, họ Cáo và họ Vàng.
 
Ông Min Phà Khái, Nghệ nhân dân gian - Người có uy tín của dân tộc Cờ Lao giới thiệu về sự tích Hoàng Vần Thùng tại Miếu thờ thôn Tả Chải.
Ông Min Phà Khái, Nghệ nhân dân gian - Người có uy tín của dân tộc Cờ Lao giới thiệu về sự tích Hoàng Vần Thùng tại Miếu thờ thôn Tả Chải.
Do địa hình nằm trên sườn núi với những khe suối rồi rào nguồn nước tưới quanh năm, đất đai màu mỡ nên rất thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp. Cũng như các dân tộc khác, người Cờ Lao ở xã Túng Sán đều trồng lúa nước và các loại cây trồng khác như ngô, đậu... trên các thửa ruộng bậc thang. Những năm trước đây, người dân chỉ gieo trồng mỗi năm một vụ lúa, trong đó chủ yếu là giống lúa địa phương dài ngày, những lúc nông nhàn thì chăm bón và thu hái chế biến chè, trồng đậu tương và một số cây trồng khác với quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình theo hướng tự cung tự cấp. Những năm gần đây, việc áp dụng các mô hình sản xuất xoá đói giảm nghèo được áp dụng có hiệu quả, đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã được cải thiện một cách rõ rệt.

Là xã vùng sâu, vùng xa của huyện, đường sá chủ yếu là đường đất, thường sạt lở về mùa mưa, trình độ dân trí thấp, sự giao thoa văn hoá diễn ra chậm nên hiện nay nhiều phong tục tập quán phong phú độc đáo của nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã vẫn được lưu giữ bảo tồn, đặc biệt là một số phong tục tập quán, như kiến trúc nhà ở, trang phục, các lễ cúng... Về kiến trúc nhà ở, người Cờ Lao thường chọn địa điểm dựng nhà lưng dựa vào núi, phía trước hướng ra ruộng hoặc suối, tập trung từng xóm nhỏ phân theo các dòng họ. Nhà ở của người Cờ Lao là loại nhà đất, có cấu trúc 3 gian 2 trái, mái thấp, vách đan bằng tre hoặc vầu...

Người Cờ Lao xã Túng Sán thuộc nhóm Cờ Lao đỏ, nên từ trước đến nay hầu hết đều mặc trang phục truyền thống do người dân tự may. Áo của phụ  nữ thường may bằng vải mộc tự dệt, nhuộm màu đen, hoặc xanh dài đến đầu gối. Phần trên ngực áo được trang trí vòng tròn trước, sau bằng những khoanh vải có màu sắc đẹp. 2 ống tay áo được may đáp bằng một mảnh vải hoa rộng khoảng 2 cm hoặc có khâu nảy các nét chỉ màu, cách gấu áo 3 - 5cm. Quần màu đen thuộc loại quần chân què tọa. Trang phục nam giới là áo tứ thân dài đến ngang mông, quần chân què lá tọa, không có cạp...
 
Phụ nữ Cờ Lao trong trang phục truyền thống.
Phụ nữ Cờ Lao trong trang phục truyền thống.
Đặc biệt, người Cờ Lao đều thờ chung một nhân vật, đó là Hoàng Vần Thùng (tức Hoàng Văn Đồng - Thành hoàng của làng). Qua lời kể của ông Min Phà Khái - Nghệ nhân dân gian và là Người có uy tín của dân tộc Cờ Lao, ở thôn Tà Chải: Hoàng Vần Thùng là một người có công khai thiên lập địa và giúp nhân dân trong vùng mở mang khai khẩn, đánh đuổi thú dữ, kẻ thù để giành lại cuộc sống bình yên cho dân làng. Vì vậy ông được coi như vị Thành Hoàng của các tộc họ người Cờ Lao. Để tưởng nhớ công ơn của ông, vào đầu tháng 7 âm lịch hàng năm, các tộc họ người Cờ Lao lại tổ chức cúng tế tại miếu Thành Hoàng được lập tại đỉnh núi cao nhất của dải Tây Côn Lĩnh... Trước khi cúng tế khoảng 10 ngày, già làng hoặc trưởng bản đi thông báo cho các trưởng họ về thời gian tổ chức cúng tế để các trưởng họ thông báo cho các gia đình chuẩn bị lễ vật, gồm 1 đến 2 kg gà hoặc thịt lợn, gạo, rượu, rau… Khi đến giờ cúng thì thầy cúng lấy tất cả các con vật làm đồ tế lễ để cúng sống, sau khi cúng xong bước thứ nhất, các lễ vật sống được đem đi nấu chín và sắp ra mâm và tiếp tục cúng. Cuối cùng tất cả mọi người cùng tổ chức ăn uống tại miếu, số còn lại được chia đều cho các gia đình lấy phần mang về nhà...

Người Cờ Lao ở Túng Sán hiện đang thừa hưởng và lưu giữ một kho tàng âm nhạc dân gian đồ sộ gồm những bài hát dân ca được lưu truyền miệng trong cộng đồng người Cờ Lao. Khác với các dân tộc khác, dân ca chủ yến được lưu truyền qua các thầy cúng còn đối với dân tộc Cờ Lao chủ yếu được lưu truyền qua các nghệ nhân dân gian hoặc các bậc cao niên... Theo thống kê, hiện có khoảng trên 200 bài hát cổ được các nghệ nhân người Cờ Lao xã Túng Sán thuộc theo kiểu truyền khẩu và thường hát trong các dịp lễ tết hoặc trong các đám cưới hỏi, trong lễ cúng Hoàng Vần Thùng...

Đồng chí Thào Seo Chính, Phó Chủ tịch UBND xã Túng Sán, chia sẻ: Mặc dù có sự giao thoa với một số dân tộc khác cùng sinh sống trên địa bàn, song những nét văn hóa đặc trưng của người Cờ Lao ở Túng Sán không bị mai một. 
Theo baohagiang.vn
Dân tộc Cờ Lao Dân tộc Cờ Lao

Tên tự gọi: Cờ Lao.

Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.

Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.

Dân số: 2.636 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan Hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.

Hoạt động sản xuất: Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.

Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.

Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.

: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu Péo.

Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.

Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.

Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.

Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.

Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở người Cờ Lao xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm một vòng đá nữa.

Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thờ cúng.

Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm