Cơ hội xuất khẩu hàng hóa sang thị trường UAE và Kuwait

Cơ hội xuất khẩu hàng hóa sang thị trường UAE và Kuwait
Đó là nhận định của các đại biểu tại Hội thảo Hành trình đến với thị trường Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và Kuwait do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp với Lãnh sự quán Kuwait tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, ngày 25/9/2018.
Ông Phạm Thiết Hòa, Giám đốc ITPC, phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh – TTXVN
Ông Phạm Thiết Hòa, Giám đốc ITPC, phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh – TTXVN
Dư địa thị trường lớn
Ông Phạm Thiết Hòa, Giám đốc ITPC cho biết, UAE và Kuwait là 2 trong 6 quốc gia (gồm UAE, Saudi Arabia, Quatar, Bahrain, Kuwait, Oman) thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (Gulf Cooperation Council – GCC) được đánh giá là có nhiều tiềm năng cho thương mại, đầu tư đối với Việt Nam.
 
UAE nằm bên bờ vịnh Ba Tư là nền kinh tế lớn thứ hai ở Trung Đông, đóng vai trò trung tâm thương mại và tài chính của khu vực, đồng thời là nơi trung chuyển hàng hóa và trung tâm tái xuất hàng hóa lớn thứ 3 thế giới.
 
Ngoài ra, UAE cũng là thị trường có khả năng thanh toán cao, có sức mua lớn và nhu cầu nhập khẩu hàng hóa đa dạng với kim ngạch nhập khẩu năm 2017 khoảng 265 tỷ USD. Trong khi kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang UAE năm 2017 mới đạt hơn 5 tỷ USD, chiếm chưa tới 2% thị phần.
 
Theo ông Phạm Thiết Hòa, tiềm năng mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang UAE còn rất lớn, tập trung vào các mặt hàng như thủy sản, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, rau quả, dệt may, giày dép, vật liệu xây dựng…
 
Trong khi đó, Kuwait là một trong những quốc gia giàu có tại khu vực Trung Đông, phải nhập khẩu hầu hết các loại hàng hóa, do vậy nhu cầu nhập khẩu tương đối lớn và đa dạng (tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm khoảng 30 tỷ USD), gồm các mặt hàng chính như điện tử, nông sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng, máy móc, ô tô, hàng may mặc,…
 
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Kuwait của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 70 - 75 triệu USD/năm (khoảng 0,25% thị phần) và đây là thị trường còn rất nhiều dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới.
 
Ông Jasem Abomarzouq, Phó Tổng lãnh sự Kuwait tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Kuwait đang phát triển rất mạnh mẽ.
Ông Jasem Abomarzouq, Phó Tổng lãnh sự Kuwait tại Thành phố Hồ Chí Minh, phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh – TTXVN
Ông Jasem Abomarzouq, Phó Tổng lãnh sự Kuwait tại Thành phố Hồ Chí Minh, phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh – TTXVN
 
Nếu như kim ngạch thương mại song phương giữa Kuwait và Việt Nam cả năm 2017 chỉ đạt 350 triệu USD thì trong 8 tháng năm 2018 kim ngạch song phương đã tăng gấp 4 lần so với cả năm 2017, đạt khoảng 1,43 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào Kuwait đạt khoảng 54 triệu USD, nhập khẩu của Việt Nam từ Kuwait đạt 1,37 tỷ USD.
 
Nhiều hàng hóa của Việt Nam đã có mặt tại thị trường Kuwait từ nhiều năm nay như trái cây, hải sản đông lạnh, gạo, giày dép, vật liệu xây dựng, than củi, mỹ phẩm, nước uống giải khát, kẹo bánh…
 
Tương lai, Kuwait mong muốn hàng hóa của Việt Nam có mặt ngày càng nhiều hơn nữa tại thị trường Kuwait nói riêng và thị trường các nước GCC nói chung.
 
Theo ông Jasem Abomarzouq, do điều kiện không thuận lợi về đất đai và nguồn lao động, nên Kuwait và các nước GCC có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu lương thực, thực phẩm, thủy sản, vật liệu xây dựng, máy móc, ô tô, đồ may mặc... Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, hải sản.
 
Với chính sách kinh tế mở, hàng hóa nhập khẩu vào Kuwait từ các quốc gia ngoài GCC (trừ xuất xứ hàng hóa nhập khẩu từ Israel) thường chịu mức thuế nhập khẩu từ 0 - 5% CIF (giá trị hàng tại cảng dỡ hàng).
 
Các mặt hàng nhập khẩu vào Kuwait được hưởng mức thuế suất ưu đãi 0% gồm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, động thực vật tươi sống, vàng khối, hàng tiêu dùng thiết yếu, vật liệu in ấn, nguyên liệu thô hay bán thành phẩm và thiết bị phụ tùng phục vụ các ngành sản xuất mới.
 
Kuwait cũng không áp dụng các loại thuế đánh vào doanh thu cá nhân, doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, không đánh thuế VAT. Đó là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư vào khu vực này.
 
Đi tìm bản sắc
UAE, Kuwait nói riêng và các nước Trung Đông nói chung là những quốc gia Hồi giáo, do đó khi hợp tác thương mại, đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa, thực phẩm vào khu vực này, doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ văn hóa và những yêu cầu về chứng nhận sản phẩm phù hợp với người Hồi giáo.
Đại diện một doanh nghiệp trao đổi tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN
Đại diện một doanh nghiệp trao đổi tại Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN

Ông Jasem Abomarzouq đặc biệt nhấn mạnh đến nét đặc trưng của Kuwait và các nước GCC là văn hóa Ả rập, ngôn ngữ Ả rập và đạo Hồi chính thống. Các doanh nghiệp cần có các sản phẩm xuất khẩu phù hợp theo tiêu chuẩn chất lượng của đạo Hồi, lưu ý các loại sản phẩm cấm kỵ như các loại đồ uống có cồn, sản phẩm có nguồn gốc từ thịt heo, họa tiết in ấn trên bao bì…
 
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, đại diện Văn phòng chứng nhận Halal tại Việt Nam nhận định: Thị trường Hồi giáo có sức mua lớn và nhu cầu cao đối với các sản phẩm Việt Nam, không có nhiều các rào cản kỹ thuật và thuế quan, nhưng thường yêu cầu sản phẩm phải có chứng nhận Halal.
 
Nền công nghiệp Halal cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo (bao gồm ASEAN, Trung Đông và Bắc Phi) dự báo sẽ có doanh thu khoảng 3.600 tỷ USD vào năm 2021; trong đó khoảng 2.000 tỷ USD dành cho chi tiêu cho ăn uống.
 
Điều kiện cơ bản để được chứng nhận Halal là sản phẩm Haram (không bị cấm), người Hồi giáo không sử dụng hoặc sử dụng những thành phần không phải Haram.
 
Cùng đó, phải có sự tách biệt và quản lý chặt chẽ giữa sản phẩm Halal và không Halal, đặc biệt là hệ thống quản lý chất lượng và đội ngũ nhân sự quản lý hệ thống Halal.
 
Ngoài ra, phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn sức khỏe người tiêu dùng và sản xuất; toàn bộ nhân viên được đào tạo về Halal.
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN
 
Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, chứng nhận Halal của nguyên liệu là phương pháp chứng minh đơn giản và tin cậy nhất cho việc chứng minh nguồn nguyên liệu sử dụng là Halal, đặc biệt là nguyên liệu động vật.
 
Sản phẩm được chứng nhận Halal đáp ứng được yêu cầu của chuỗi cung ứng Halal toàn cầu, được người Hồi Giáo tin tưởng mua, sử dụng mà không phải do dự, được người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới lựa chọn vì đáp ứng  cả các yêu cầu về kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
 
Có chứng nhận Halal, sản phẩm Việt Nam sẽ tăng cơ hội canh tranh với sản phẩm khác không chỉ tại khu vực Trung Đông mà còn dễ dàng tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm Halal trên thế giới, tiếp cận tới toàn bộ thị trường tiêu dùng hơn 1,8 tỷ người theo đạo Hồi.
 
Ngoài ra, các doanh nghiệp có kinh nghiệm xuất khẩu vào thị trường Trung Đông cũng chia sẻ, do đặc trưng về tôn giáo, văn hóa nên khi tiếp cận thị trường UAE, Kuwait và nước Trung Đông nói chung, doanh nghiệp nên cử nam giới đứng ra trao đổi và hợp tác sẽ thuận lợi hơn.
 
Để giảm thiểu các rủi ro từ các giao dịch thương mại với đối tác mới, doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ thông tin, lịch sử hoạt động của đối tác.

Mặt khác, phải thương lượng và lựạ chọn các hình thức thanh toán có sự đảm bảo, bảo lãnh từ các ngân hàng có chỉ số tín nhiệm cao./.
 Xuân Anh
Báo ảnh Dân tộc và Miền núi/TTXVN

Có thể bạn quan tâm