Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer

Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn
Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn

Trà Vinh là tỉnh có đông đồng bào Khmer, với hơn 390.000 người, chiếm trên 31% dân số toàn tỉnh. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, nhiều năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer.

Xây dựng nơi bảo tồn về các giá trị di sản văn hóa

Năm 1992, ngay khi được tái thành lập, Tỉnh ủy Trà Vinh đã đề ra Nghị quyết số 01-NQ/TU về chương trình phát triển toàn diện vùng đồng vào dân tộc Khmer trong tỉnh. Theo đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã thực hiện nhiều hoạt động, tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực từ Trung ương, ngân sách tỉnh cùng nguồn vốn hợp pháp khác tập trung đầu tư hàng ngàn công trình, dự án…nhằm nâng cao cuộc sống và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer.

Ông Dương Hoàng Sum, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh cho biết, song song với việc quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí, tỉnh chú trọng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào Khmer. Cụ thể, năm 1995, tỉnh xây dựng Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh. Đây là Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long được đưa vào hoạt động lúc bấy giờ.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 1Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn

Đến nay, Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh đã sưu tầm, hệ thống hóa và trưng bày khoảng trên 1.000 hiện vật thể hiện rõ nét đời sống văn hóa, lao động sản xuất, tín ngưỡng tâm linh, phong tục tập quán của đồng bào... Hiện, toàn tỉnh có 40 di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh được công nhận là các cơ sở thờ tự. Riêng lễ hội Ok-Om-Bok do Trà Vinh tổ chức hàng năm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Đặc biệt, Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh hiện lưu giữ một bảo vật quốc gia được công nhận vào năm 2016. Đó là ngẫu tượng Linga - Yoni (tượng trưng cho bộ phận sinh thực khí Nam - Nữ) chất liệu bằng đá thủy tinh trong suốt (Crystal rock). Bảo vật này được các nhà khảo cổ học thuộc Viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện trong quá trình khai quật di chỉ khảo cổ học Lưu Cừ II, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú vào năm 1986.

Bà Sơn Thị Hiền, viên chức Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh bày tỏ sự tự hào mỗi khi được hướng dẫn, thuyết minh cho khách đến tham quan, tìm hiểu hiện vật, nét độc đáo về văn hóa của dân tộc Khmer Trà Vinh nói riêng và đồng bào Khmer Nam Bộ nói chung.

Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh thường đón nhiều khách tham quan vào các dịp lễ, Tết và ngày nghỉ cuối tuần… Những ngày bình thường, Bảo tàng tiếp đón khoảng 100 khách/ngày. Ngoài khách du lịch, Bảo tàng đón nhiều nhất là đoàn học sinh đến từ các trường dân tộc nội trú, khách nước ngoài tới tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa dân tộc Khmer.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 2Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh được khánh thành vào năm 1995, lưu giữ rất nhiều hiện vật phong phú về đời sống văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn: travinh.gov.vn

Những tháng cuối năm 2022, Bảo tàng sẽ hoàn chỉnh thêm hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Đom Lơng Néak Tà của dân tộc Khmer để trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thẩm định đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó, đơn vị xây dựng dự toán, kế hoạch, tờ trình xin chủ trương xây dựng hồ sơ văn hóa phi vật thể về nghề dệt chiếu Cà Hom - Bến Bạ của đồng bào Khmer tại xã Hàm Tân, huyện Trà Cú để đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trong năm 2023.

Bảo tồn chữ viết và nâng cao nguồn nhân lực

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer, nhiều năm qua, Trà Vinh không ngừng đầu tư về cơ sở vật chất, triển khai hiệu quả việc giảng dạy, học tập chữ Khmer cho con em đồng bào trong tỉnh.

Ông Thạch Mu Ni, Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh cho biết, toàn tỉnh có 8 trường dân tộc nội trú cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, với khoảng 3.000 học sinh theo học mỗi năm. Trên địa bàn tỉnh có 143 chùa Phật giáo Nam tông Khmer đều tổ chức giảng dạy chữ Khmer tại điểm chùa. Đây là hoạt động thường niên luôn nhận được sự ủng hộ, khuyến khích từ chính quyền địa phương và Phật tử, trở thành phong trào học tập mạnh mẽ, góp phần quan trọng gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa, tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 3Lớp học tiếng Khmer ở chùa Âng (phường 8, TP Trà Vinh). Nguồn: thoidai.com.vn

Đưa tiếng Khmer vào giảng dạy tại một số trường phổ thông, tại điểm chùa giúp con, em đồng bào hình thành, phát triển kỹ năng sử dụng chữ Khmer, mở rộng hiểu biết về văn hóa dân tộc của mình, bồi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc, nâng cao ý thức tự hào công dân Việt Nam.

Cùng với việc dạy chữ Khmer ở các trường phổ thông, Trà Vinh là tỉnh duy nhất trong cả nước đào tạo ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật Khmer ở bậc đại học tại Trường Đại học Trà Vinh.

Hơn 10 năm nay, Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ của Trường Đại học Trà Vinh đào tạo đa ngành, đa cấp, cung cấp nguồn nhân lực dân tộc Khmer trí thức cho tỉnh, ở Nam Bộ cũng như cả nước.

Sinh viên sau khi tốt nghiệp có nhiều cơ hội việc làm như làm phiên dịch viên, công tác trong cơ quan Nhà nước, công ty của Việt Nam đang hoạt động tại Campuchia… Ngoài miễn học phí, sinh viên còn được hỗ trợ sinh hoạt phí…

Cùng với đào tạo ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật Khmer ở bậc đại học, năm 2014, Trà Vinh thành lập Trường Trung cấp Pali Khmer. Đây trường nội trú với các chế độ chính sách tương tự các trường dân tộc nội trú hiện hành. Ngôi trường đặc thù này dành cho tăng sinh (chủ yếu theo hệ phái Nam tông Khmer) được đào tạo tổng hợp chương trình giáo dục thường xuyên, tiếng Pali, Ngữ văn Khmer và giáo lý Phật giáo.

Thầy Lâm So Rone, Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Pali Khmer cho biết, việc thành lập trường là nguyện vọng lớn nhất của các vị cao tăng, các vị lão thành cách mạng người Khmer trên địa bàn tỉnh. Bởi tăng sinh, sinh viên khi có bằng Trung cấp Pali Khmer sẽ đủ điều kiện học tiếp lên cao đẳng, đại học. Đến nay, Trường Trung cấp Pali Khmer Trà Vinh đã đào tạo được 6 khóa với 176 tăng sinh; trong đó, có 75 vị tiếp tục học lên cao đẳng, đại học và 20 vị làm trụ trì, phó trụ trì các chùa Khmer trong tỉnh. Một số vị hoàn tục đi làm việc ở nước ngoài. Từ ngôi trường này, các vị sư có mong muốn học tập nâng cao hơn nữa sẽ đủ điều kiện để du học lên Tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ, Sri Lanka...

Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hẳn cho biết, tỉnh đang thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn. Trong giai đoạn I (2022-2025), tỉnh thực hiện 10 dự án, với tổng kinh phí đầu tư trên 1.711 tỷ đồng; trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ hơn 1.124 tỷ đồng.

Năm 2022, tỉnh bố trí hơn 400 tỷ đồng từ nguồn vốn Trung ương, ngân sách địa phương, vốn vay tín dụng chính sách và vốn huy động hợp pháp khác tập trung đầu tư vào các dự án thiết yếu phục vụ dân sinh. Trong đó, tỉnh ưu tiên bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào Khmer; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer của tỉnh.

Phúc Sơn

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm