Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia

Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang nhìn từ trên cao. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang nhìn từ trên cao. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN

Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang nằm bên bờ sông Hậu thuộc ấp Châu Giang, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu được xây dựng từ năm 1750. Đây là một trong những nhà thờ Hồi giáo (thờ thánh Ala) lâu đời nhất của cộng đồng người Chăm, theo phong cách kiến trúc thánh đường ở các nước Trung Đông, do kiến trúc sư người Ấn Độ Mohamed Amin thiết kế. Đến nay, thánh đường này đã trải qua 5 lần trùng tu, sửa chữa và lần gần nhất vào năm 1965, thánh đường Mubarak được xếp hạng Di tích Lịch sử – Văn hóa quốc gia (năm 1989).

Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 1Mỗi năm, Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang có 3 kỳ lễ lớn; Lễ sinh nhật Nhà tiên tri Mohammed, người sáng lập đạo Hồi, vào 12/3 Hồi lịch gọi là lễ Mâulút; Ngày tết của người Chăm, Hari Raya vào ngày 1/10 hồi lịch; Lễ Chay Ramadan từ ngày 1 đến 30/09 Hồi lịch. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 2Thánh đường Hồi giáo Mubarak (An Giang) nhìn từ bên trong ra cổng. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 3Với nét kiến trúc độc đáo, đậm bẳn sắc văn hoá của người Chăm và những lễ hội truyền thống mang tính đặc trưng cảu đạo Hồi mà thánh đường Mubarak đã được công nhận là kiến trúc nghệ thuật vào ngày 5/12/1989. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 4Không gian bên trong Thánh đường Hồi giáo Mubarak được thiết kế rộng và có nhiều cửa ra vào cùng 8 cây cột chắc chắn được đặt cân đối, là nơi tập trung đông người đến cầu nguyện. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 5Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang nhìn từ trên cao. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 6Nghĩa địa của người Chăm Hồi giáo ở tỉnh An Giang được đặt sát với thánh đường, ở đó được mai táng nhiều tầng, không phân biệt về mối quan hệ xã hội – sang hay hèn qua những ngôi mộ to hay nhỏ, mà đơn giản chỉ là mọi người nằm xuống chỉ có một cái mộ chí. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 7Không gian bên trong Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang, với màu chủ đạo là màu xanh và màu trắng. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 8Thánh đường Hồi giáo Mubarak (An Giang) nhìn từ bên trong ra cổng. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 9Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang được thiết kế theo dạng 1 toà nhà rộng, với nhiều dẫy hành lang dài thẳng. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 10Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang được thiết kế theo dạng 1 toà nhà rộng, với nhiều dẫy hành lang dài thẳng, gam màu chủ đạo là xanh và trắng, dọc hành lang là những bức tường trang trí hoạ tiết cùng với những dòng chữ chăm được trích từ kinh thánh. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 11Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang được thiết kế theo dạng 1 toà nhà rộng, với nhiều dẫy hành lang dài thẳng, gam màu chủ đạo là xanh và trắng. Ảnh: Phạm Hậu – TTXVN
Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang - di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia ảnh 12Thánh đường Hồi giáo Mubarak ở An Giang nhìn từ trên cao. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN

  Phạm Hậu - Vũ Sinh

(TTXVN)
Dân tộc Chăm Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh ThuậnBình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. 

Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. 

Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. 

Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. 

Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.  

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm