Tại sao người Ơ đu lại sợ tiếng chiêng?

Tại sao người Ơ đu lại sợ tiếng chiêng?
Tiếng chiêng không phải là âm thanh mong đợi của người Ơ Đu cư trú ở xã Nga My, huyện Tương Dương (Nghệ An). Khi một ai đó gõ chiêng là thảm họa của cả nhà, thậm chí là cả dòng họ. Tiếng chiêng vang lên được cho là sẽ động đến Then (nhà Trời) và sẽ bị giáng họa.
Những người phụ nữ dân tộc Ơ Đu
Những người phụ nữ dân tộc Ơ Đu
Cộng đồng người Ơ Đu là một trong 54 dân tộc của Việt Nam và chỉ có duy nhất ở huyện Tương Dương (Nghệ An). Trước năm 2006, người Ở Đu sinh sống ở các bản Xốp Pột, Pủng Ca Moong, Kim Hòa xã Kim Đa (Huyện Tương Dương, Nghệ An). Ở một số xã, người Ơ Đu sống hòa lẫn với người Thái, Khơ mú. Từ năm 2006, người Ơ Đu di dời đến sinh sống tại bản Văng Môn, xã Nga My. Những bản cũ của họ đã chìm vào lòng hồ thủy điện Bản Vẽ.
Một ngôi nhà được cho là giống với kiến trúc cổ của người Ơ Đu nhất tại bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương (Nghệ An)
Một ngôi nhà được cho là giống với kiến trúc cổ của người Ơ Đu nhất tại bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương (Nghệ An)
Ngày nay về cơ bản văn hóa của người Ơ Đu gần như đã biến mất hoàn toàn. Chỉ có những người già nhất nhớ được hơn 200 từ, nhưng không ít trong số này vay mượn tiếng Thái. Họ chỉ còn giữ được rất ít tập tục trong đó tiêu biểu là nỗi sợ tiếng chiêng. Ông Lo Văn Phúc, một trong số ít người già nhất còn lại trong bản cho biết hiện nay người Ơ Đu giữ phong tục không gõ chiêng, trống. Tiếng chiêng chỉ vang lên một lần trong năm. Đó là lúc có tiếng sấm đầu năm, chủ nhà sẽ gõ 3 tiếng chiêng rồi treo lên vị trí trang trọng, gần bàn thờ tổ tiên. Từ đó trong suốt một năm không ai được động đến nữa.
Ống đựng tiền, giỏ cá, giỏ tra hạt của người Ơ Đu tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Ống đựng tiền, giỏ cá, giỏ tra hạt của người Ơ Đu tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Người Ơ Đu cho rằng tai họa sẽ đến nếu ai vô tình hay cô ý gõ chiêng vào ngày thường. Gõ chiêng trong ngày không có tiếng sấm đầu năm lần lượt từng người trong nhà sẽ ốm đau bệnh tật, dẫn đến mất mạng. Sau đó sẽ đến những người trong họ hàng. Để tránh tai họa, người phạm vào tục cấm sẽ phải mổ lợn, thậm chí là trâu bò để cúng Then (Trời) xin xá tội. Lễ cúng thường rất tốn kém nên chẳng mấy ai dám vi phạm luật tục. Theo ông Lo Văn Phúc, nỗi sợ tiếng chiêng liên quan đến tục thờ Trời của người Ơ Đu. Phong tục này bắt dầu bởi quan niệm khởi điểm của một năm kể từ khi có tiếng sấm đầu tiên. Con ông Lo Văn Tình - Bí thư Chi bộ bản Văng Môn cho biết: Trước kia người Ơ Đu đã lập lời thề sẽ không bao giờ gõ trống chiêng trong ngày thường. Chỉ đánh lên một hồi 3 tiếng khi nghe tiếng sấm đầu năm. Từ đó thành tập tục của người Ơ Đu.
Theo baonghean.vn
Dân tộc Ơ Đu Dân tộc Ơ Đu

Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.

Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).

Dân số: 376 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.

Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.

Hoạt động sản xuất: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ: phát, đốt, gieo hạt từ các tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch vào các tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ, hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi. Xưa họ còn biết dệt vải.

Ăn: Người Ơ Ðu thường ăn 1 bữa phụ (sáng), 2 bữa chính (trưa và tối). Trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.

Mặc: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.

: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc). Khi dựng cột phải tuân theo một thứ tự nhất định. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến hơn cả là gùi dây đeo bên trán. Gùi rất đẹp, bền chắc.

Quan hệ xã hội: Do số lượng dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái cho nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của họ chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Người Ơ Ðu lấy họ theo họ Thái, Lào. Tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ.

Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi tại góc nhà phía gian dành cho phụ nữ. Nhau trẻ bỏ vào ống tre đem chôn ngay dưới gầm sàn. Tuổi đứa con được tính từ ngày có tiếng sấm trong năm. Khi đó đứa bé được coi là đầy năm và được bố mẹ làm lễ đặt tên.

Thờ cúng: Người Ơ Ðu tin rằng khi người chết, hồn biến thành ma. Hồn thân thể ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà.

Lễ tết: Người Ơ Ðu ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản Xốp Pột, xã Kim Ða, Tương Dương, Nghệ An.

Văn nghệ: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.

Chơi: Người Ơ Ðu có vai trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm