Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang

Người Chăm Islam lấy tên của 25 vị thánh để đặt tên cho đứa trẻ và tên này sẽ theo đến hết đời, nếu muốn thay đổi phải sửa soạn lễ vật tương đương như lúc đặt tên ban đầu. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Người Chăm Islam lấy tên của 25 vị thánh để đặt tên cho đứa trẻ và tên này sẽ theo đến hết đời, nếu muốn thay đổi phải sửa soạn lễ vật tương đương như lúc đặt tên ban đầu. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN

Trong khuôn khổ Tuần "Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hoá Việt Nam" năm 2022, tại Làng Văn hoá - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Hà Nội), đồng bào người Chăm Islam của tỉnh An Giang tổ chức tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con.

Thông thường, sau khi sinh được 7 ngày, người ta làm lễ cắt tóc và đặt tên cho đứa trẻ. Tại buổi lễ, người trong gia đình bồng đứa trẻ ra và đi lại trước các ông Hakêm, Tuôn và Imâm, rồi đến các vị bô lão để những người này ban phúc lành bằng cách đọc vào tai nó những câu kinh rồi nhúng lông gà vào lọ nước thánh quệt lên trán nó. Tiếp theo, Ông Hakêm hoặc các vị bô lão sẽ đọc kinh rồi dùng kéo cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu đứa trẻ, thoa chút dầu thơm và tiến hành đặt tên cho nó. Người Chăm Islam có ba cách đặt tên chủ yếu: đặt tên thánh, đặt tên trí thức và đặt tên thường.

Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 1Đứa trẻ được bà thay quần áo mới trước khi tiến hành Nghi lễ đặt tên. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 2
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 3Người Chăm Islam lấy tên của 25 vị thánh để đặt tên cho đứa trẻ và tên này sẽ theo đến hết đời, nếu muốn thay đổi phải sửa soạn lễ vật tương đương như lúc đặt tên ban đầu. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 4Gia chủ bế đứa bé ra chuẩn bị làm lễ. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 5 Gia chủ bế đứa bé đến trước mặt các vị chức sắc. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 6Những người phụ nữ trong làng cùng đứa trẻ trước khi bắt đầu nghi lễ. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 7
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 8Mọi người cùng cầu nguyện với mong muốn đứa trẻ được phúc lành, bình an, nhiều điều may mắn. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 9Vị Giáo cả cùng đứa bé trong nghi lễ đặt tên. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 10Các vị Giáo cả (Hakêm), chức sắc, chức việc trong làng và dòng họ, làng xóm đến tham dự và chứng kiến. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 11Gia đình mời mọi người dùng trà và các loại bánh truyền thống. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 12Mọi người cùng cầu nguyện với mong muốn đứa trẻ được phúc lành, bình an, nhiều điều may mắn. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN
Tái hiện Nghi lễ đặt tên cho con của đồng bào Chăm Islam An Giang ảnh 13 Tiết mục văn nghệ tại Nghi lễ. Ảnh: Tuấn Đức – TTXVN

Tuấn Đức

(TTXVN)
Dân tộc Chăm Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh ThuậnBình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. 

Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. 

Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. 

Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. 

Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.  

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm