Tái hiện Lễ cưới của đồng bào dân tộc Raglai

Đám cưới diễn ra ở nhà trai. Ảnh: Nam Sương
Đám cưới diễn ra ở nhà trai. Ảnh: Nam Sương

Tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) ngày 20/5/2018, đồng bào dân tộc Raglai ở huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận đã tái hiện lại Lễ cưới truyền thống của dân tộc mình.

Nhà gái bàn bạc với ông mai trước khi sang nhà trai. Ảnh: Nam Sương
Nhà gái bàn bạc với ông mai trước khi sang nhà trai. Ảnh: Nam Sương 
Cũng như nhiều dân tộc khác, đối với đồng bào dân tộc Raglai, đám cưới là một nghi lễ quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của mỗi con người, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của một cá nhân trong xã hội. Người Raglai quan niệm có vợ có chồng là có sự sống, duy trì giống nòi, vì vậy việc cưới xin phải được tiến hành trang trọng và là ngày hội vui của cả cộng đồng.
 
Nhà gái làm lễ trước khi sang nhà trai. Ảnh: Nam Sương
Nhà gái làm lễ trước khi sang nhà trai. Ảnh: Nam Sương 
Đám cưới của đồng bào Raglai trải qua nhiều nghi thức như: Đính ước, ăn hỏi và lễ cưới. Cộng đồng người Raglai theo chế độ mẫu hệ nên mọi quyết định quan trọng nhất trong đám cưới nhà gái đều nắm vai trò chủ động và quyết định, nghi lễ cưới chính cũng được tổ chức ở nhà gái. Tuy nhiên, trong tình yêu và lễ dạm hỏi thì nhà trai vẫn là người chủ động đi hỏi vợ, khi đã được cô gái chấp nhận họ tiến hành nghi thức “lễ nhận hỏi”, đôi trai gái trao vòng cho nhau như một vật đính ước cho ngày cưới.
Tái hiện Lễ cưới của đồng bào dân tộc Raglai ảnh 3Ông mai dẫn đầu đoàn nhà gái sang nhà trai. Ảnh: Hoàng Tâm 

Trước khi quyết định tiến hành đi đến đám cưới, người Raglai có phong tục tiền hôn nhân (ngủ thảo để tìm hiểu nhau). Theo luật tục Raglai, người con gái phải để chàng trai chủ động bày tỏ tình yêu và phải siêng năng, chăm chỉ để được các chàng trai đem lòng yên mến thì mới được phép chọn người ngủ thảo.

Tái hiện Lễ cưới của đồng bào dân tộc Raglai ảnh 4Theo phong tục của người Raglai, đôi trai gái có thể ngủ thảo để tìm hiểu nhau nhưng không được đi quá giới hạn. Ảnh: Hoàng Tâm

Ngủ thảo là tục lệ chỉ dành cho các chàng trai, cô gái chưa lập gia đình, không chỉ diễn ra một đêm mà diễn ra một vài đêm hoặc có thể kéo dài từ khi đôi trai gái quyết định tìm hiểu nhau cho tới ngày cưới. Các đêm ngủ thảo sẽ giúp đôi bạn trẻ tâm tình để thấu hiểu nhau, nuôi dưỡng tình yêu bền chặt, nếu tiến tới hôn nhân, vợ chồng sẽ có cuộc sống hòa thuận hơn. Tục lệ này là sự thử thách bản thân cũng như sự tôn trọng nhau của đôi bạn trẻ. Đôi trai gái được ngủ thảo để tâm tình nhưng không được đi quá giới hạn, nếu không sẽ bị nộp phạt cho làng một con heo, một ché rượu, hai gia đình phải làm lễ cắt lúi, cúi đầu tạ tội trước ông bà tổ tiên vì đã làm xấu mặt dòng họ, làng xóm, không được tổ chức cưới trang trọng.

Trong quá trình ngủ thảo, nếu đôi trái gái cảm thấy thực sự không thể sống thiếu nhau sẽ xin hai bên gia đình cho phép tiến tới hôn nhân. Ngược lại nếu không ưng thuận nhau thì chia tay trong êm đẹp, không oán than, giận hờn hay ghét bỏ nhau.
Sau khi gia đình hai bên đồng ý cho đôi bạn trẻ tiến tới hôn nhân thì nhà trai tìm ông mai bà mối, là những người đứng tuổi, am hiểu phong tục tập quán, hiểu biết sâu rộng, nói năng hoạt bát để sang nhà gái tiến hành lễ hỏi.
Đám cưới diễn ra ở nhà trai. Ảnh: Nam Sương
Đám cưới diễn ra ở nhà trai. Ảnh: Nam Sương
Mặc dù đồng bào Raglai theo thiết chế mẫu hệ nhưng con trai vẫn là người chủ động trong hôn nhân từ việc chọn đối tượng bạn đời cho đến việc đi hỏi vợ, vì vậy nhà trai phải qua nhà gái trước. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai (gồm chàng trai, ông mai, bà mối, cô em gái) mang lễ vật, thường là một xấp lá trầu xanh, một chùm trái cau tơ sang nhà gái. Đây là buổi đầu gặp gỡ chủ yếu là tìm hiểu hoàn cảnh, dạm hỏi ý tứ gia đình hai bên. Sau đó, nhà gái rót ra 4 bát rượu cần, làm 4 con gà, đặt trên một cái mâm mời 4 người bên nhà trai.
Nhà trai chuẩn bị lễ vật mang sang nhà gái. Ảnh: Nam Sương
Nhà trai chuẩn bị lễ vật mang sang nhà gái. Ảnh: Nam Sương

Sau lễ ăn hỏi, trong khoảng thời gian chưa tổ chức lễ cưới, đôi trai gái tiếp tục tìm hiểu, thường xuyên qua lại để giúp các công việc  phát nương, cày ruộng, cấy hái… hai bên gia đình cũng qua lại nhà nhau bằng lễ đưa bầu rượu.

Đôi vợ chồng mang lễ vật sang nhà gái. Ảnh: Hoàng Tâm
Đôi vợ chồng mang lễ vật sang nhà gái. Ảnh: Hoàng Tâm 

Để thực hiện lễ đưa bầu rượu thì nhà gái (gồm ông mai, 1 cô gái mang lễ vật trầu cau, thuốc lá, cô dâu tương lai) đến nhà trai. Nhà trai sẽ làm 3 con gà, chuẩn bị 3 ché rượu để đón nhà gái. Trong bữa ăn, cô dâu tương lai sẽ rót rượu để mời bố mẹ chồng, sau đó hai bên rót rượu mời nhau cùng ăn uống, bàn việc hôn nhân. Để tiến tới lễ cưới, nhà trai còn qua nhà gái để hai bên chính thức  bàn chuyện cưới xin, làm lễ trao đồ cho cô dâu tương lai.

Tái hiện Lễ cưới của đồng bào dân tộc Raglai ảnh 8Cô dâu, chú rể trong ngày cưới. Ảnh: Nam Sương

Sau khi đủ điều kiện để tổ chức lễ cưới, nhà trai gồm 4 người đến nhà gái, trao món đồ cho cô dâu tương lai, đưa lễ vật chính thức, bàn chuyện chuẩn bị cho lễ cưới. Lễ này được xem trọng vì hai bên xác định thời gian, hình thức tổ chức đám cưới. Khi hai bên quyết định tiến tới hôn nhân, nhà gái bày mâm cúng cho nhà trai khấn vái ông bà, chúa xứ sở thần hồn. Sau đó, chàng trai sẽ trao lễ vật, ngoài trầu cau, còn có thêm vòng tay (bằng đồng hay bạc), cuộn dây cườm màu trắng, xanh hoặc đen (tuyệt đối không mang dây cườm màu đỏ) vì máu đỏ tượng trưng cho người đã khuất, chết chóc. Nếu gia đình nhà trai khá giả còn có thêm khăn, áo, vải vóc ( nâu, xanh, xám) kiêng vải màu đỏ vì vì máu đỏ tượng trưng cho người đã khuất, chết chóc, cô gái sẽ nhận vật làm tin từ người yêu. Chàng trai còn trao cho người yêu cái túi đựng trầu, cô gái đón nhận, têm ba mươi bảy miếng trầu, bổ ba mươi bảy miếng cau, cho vào túi, trao lại cho chàng trai. Đây là dịp để cô gái thể hiện sự khéo léo và tình cảm của mình. Không chỉ trao vật làm tin, trong lễ này, hai bên gia đình có thể tùy tình hình mà quyết định hình thức cưới trang trọng hay cưới phạt. Trong thời gian chờ lễ cưới, nếu một trong hai bên không muốn tiếp tục tiến tới hôn nhân thì tổ chức trả của, chịu phạt, bị cộng đồng lên án. Nếu chàng trai không cưới sẽ mất toàn bộ lễ vật đưa sang nhà cô gái, chịu phạt theo luật tục; nếu người con gái phá bỏ hôn ước thì chịu phạt lớn hơn, bị cộng đồng lên án gay gắt hơn.

Lễ cưới được tổ chức chính tại nhà cô dâu. Ảnh: Nam Sương
Lễ cưới được tổ chức chính tại nhà cô dâu. Ảnh: Nam Sương 

Lễ cưới của người Raglai được tổ chức ở cả nhà trai, nhà gái (nhà trai tổ chức ngày thứ nhất vào ngày lẻ, nhà gái tổ chức ngày thứ hai vào ngày chẵn). Khi thực hiện nghi thức cưới ở nhà trai xong, sang ngày thứ hai nhà trai xuất phát tới nhà gái từ sáng sớm.

Khi sang nhà gái, tùy điều kiện kinh tế từng gia đình mà họ mang theo lễ vật nhiều hay ít. Tuy nhiên, lễ vật bắt buộc trong đám cưới truyền thống bao gồm: Vòng cổ, vòng tay, Gùi đi nương, Cái rựa, Bát ăn cơm, Cái nỏ, Quần áo, tấm vải.

Cô dâu, chú rể mời trầu mọi người. Ảnh: Nam Sương
Cô dâu, chú rể mời trầu mọi người. Ảnh: Nam Sương 

Khi chàng rể tới nhà vợ phải rửa mặt tại cửa ra vào, sau đó vào nhà, tới ngồi cùng cô dâu đã đợi sẵn. Trong khi mọi người mời nhau miếng cau trầu lộc hay điếu thuốc thì cô dâu, chú rể thực hiện nghi lễ cúng ông bà tổ tiên, mời ông bà về chứng giám cho lễ thành hôn của hai người, cho phép chú rể đeo chuỗi hạt cườm, vòng tay cho cô dâu. Một điều đặc biệt là mâm cúng ông bà tổ tiên của cô dâu, chú rể phải có gà luộc nguyên con, 2 bát cơm với ý nghĩa có bát ăn bát để, cầu mong ông bà phù hộ cho đôi vợ chồng trẻ thuận hòa, làm ăn gặp nhiều may mắn. Cúng xong họ xem bói lưỡi gà, xem bói lá trầu, xem bói chân gà. Rồi cô dâu, chú rể rót rượu mời nhau và mọi người.

Cô dâu, chú rể mời rượu mọi người. Ảnh: Nam Sương
Cô dâu, chú rể mời rượu mọi người. Ảnh: Nam Sương

Tiếp theo là đưa các vật lễ vào cúng cầu mong mùa màng tốt tươi, ngô, lúa đầy kho, vợ chồng hòa thuận, yêu thương nhau trọn đời.

Sau nghi lễ cúng ông bà tổ tiên, cô dâu chú rể mời rượu ông mai, bà mối, anh chị em họ hàng hai bên (cô dâu mời nhà trai, chàng rể mời nhà gái). Tiếp đó vợ chồng sẽ mời cơm, mời thịt, mời rượu nhau. Tục lệ vợ chồng mời cơm nhau là một lời nhắc nhở phải luôn yêu thương, chăm sóc nhau, giữ tình cảm thủy chung son sắt. Việc dùng tay để gắp (bốc) cơm là thể hiện sự gắn kết con người với cây lúa, cầu mong cây lúa nặng hạt để thóc đầy kho, cơm đầy nồi. Sau đó, nhà gái sẽ dọn mâm cỗ để mọi người cùng ăn uống, chúc phúc cho cô dâu, chú rể.

Cô dâu, chú rể là lễ gột rửa. Ảnh: Nam Sương
Cô dâu, chú rể là lễ gột rửa. Ảnh: Nam Sương 

Đây cũng là dịp để người Raglai đánh mã la, hát hò, vui chơi. Sáng hôm sau, nhà gái tổ chức bữa cơm thịnh soạn mời nhà trai thưởng thức rượu, đầu lợn, tiễn nhà trai, đồng thời gửi kèm theo rượu, thịt lợn để nhà trai về mời mọi người ăn uống.

Mọi người làm lễ xin phép ông bà tổ tiên và chúc phúc cho cô dâu, chú rể. Ảnh: Nam Sương
Mọi người làm lễ xin phép ông bà tổ tiên và chúc phúc cho cô dâu, chú rể. Ảnh: Nam Sương
Sau ngày cưới, bố mẹ cô dâu, đôi vợ chồng trẻ sẽ qua nhà chú rể để thăm thông gia, làm mâm cơm cúng ông bà, tổ tiên. Lễ vật mang theo gồm 1 con gà, 1 ché hoặc 1 bầu rượu. 1 gùi củi để vợ chồng bày cúng gia tiên, người chồng xin phép ông bà tổ tiên, cha mẹ mình từ nay về làm con rể nhà khác, cầu mong tổ tiên phù hộ. Đồng thời, nhà trai cũng tùy vào điều kiện kinh tế mà đáp lễ bằng tặng phẩm như: lợn, trâu, bò, gùi, nồi, bát… Sáng hôm sau, nhà trai tiễn ông bà thông gia, vợ chồng con trai ra về, người con trai sẽ ở rể bên nhà vợ. Từ đây hai bên thông gia luôn gần gũi, giúp đỡ nhau. 
Sau khi cúng, xem bói lưỡi gà, chân gà. Ảnh: Nam Sương
Sau khi cúng, xem bói lưỡi gà, chân gà. Ảnh: Nam Sương 

Kết thúc phần lễ, mọi người cùng nhau đánh mã la, hát siri (hát đối đáp), độc tấu đàn đá, độc tấu đàn chapi, Vũ điệu Raglai, hát đối đáp để chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ. 

Hai họ tổ chức múa hát những vũ điệu truyền thống để mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Ảnh: Hoàng Tâm
Hai họ tổ chức múa hát những vũ điệu truyền thống để mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Ảnh: Hoàng Tâm 

Lễ cưới của người Raglai là một trong nhữn nghi lễ quan trọng thuộc hệ thống nghi lễ vòng đời, phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ trong chế độ mẫu hệ và thể hiện nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người Raglai.

Hoàng Tâm

(DTMN)
Dân tộc Ra Glai Dân tộc Ra Glai

Nhóm địa phương: Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...

Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác.

Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.

Hoạt động sản xuất: Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước.

Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Ra Glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.

Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Nam nữ, người già, người trẻ Ra Glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.

Ðàn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra Glai, các bộ phận của đàn được làm bằng các chất liệu khác nhau: nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi tay phải giữ bệ đàn, thân đàn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gầy vào đầu nốt nhạc.

Ăn: Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Ðồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.

Mặc: Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ trắng xen kẽ nhau.

: Người Ra Glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500-1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Ðồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.

Phương tiện vận chuyển: Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra Glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết "Hội đồng già làng" hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng... Tầng lớp thày cúng cũng đã hình thành. Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra Glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra Glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình: nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.

Sinh đẻ: Trước và sau khi sinh nở, phụ nữ Ra Glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Một số nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.

Ma chay: Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.

Thờ cúng: Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.

Lễ tết: Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Ðây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.

Văn nghệ: Ðó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Ðó cúng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra Glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm