Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông

Ngày 01/01/2021, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Mông đến từ tỉnh Hà Giang đã tổ chức tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn đặc sắc của dân tộc mình.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 1Thầy cúng làm lễ trong nhà. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ cúng Thần rừng đầu nguồn là lễ hội có từ lâu đời, tồn tại và phát triền cùng với nhiều thế hệ dòng họ, lễ hội cũng là hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian gắn với đời sống của đồng bào.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 2Mọi người mang lễ vật ra khu rừng thiêng để dâng thần linh. Ảnh: Hoàng Hải

Theo quan niệm từ xa xưa, thế giới tâm linh của đồng bào dân tộc Mông có các vị thần như: Thần núi, thần rừng… Bởi vậy, đồng bào tổ chức các lễ cúng, lễ hội để cảm tạ các vị thần che chở cho họ trong cuộc sống. Hòa đồng cùng thiên nhiên, tôn trọng bảo vệ thiên nhiên, coi rừng là bạn, gắn bó với rừng, bảo vệ rừng là quan niệm từ lâu đời của đồng bào dân tộc Mông. Với đồng bào việc bảo vệ rừng sẽ có nước sinh hoạt, có gỗ làm nhà và các vị thần sẽ cứu giúp họ trong ốm đau, bệnh tật, chiến tranh.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 3Các vật lễ sống được dân thần linh. Ảnh: Hoàng Hải

Tục thờ thần rừng để phù hộ dân làng khỏe mạnh, làm ăn tốt phát đạt, mùa màng tươi tốt, thú dữ không vào quấy rối và đặc biệt là giữ rừng. Đặc biệt là ở nơi mà đang sinh sống rừng luôn được giữ gìn không bao giờ chặt cây và giữ được những khu rừng nguyên sinh.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 4Thầy cúng làm lễ cúng sống. Ảnh: Hoàng Hải
Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 5Thầy cúng làm lễ cúng sống. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ cúng thần rừng được tổ chức vào ngày đầu năm mới vì đồng bào cho rằng đó là ngày sạch nhất trong năm, trời linh thiêng các lễ vật sẽ được dâng lên các vị thần cây, thần rừng.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 6Các lễ vật chín được bà con chuẩn bị để dâng thần linh. Ảnh: Hoàng Hải

Đến ngày làm lễ mỗi gia đình mang một lễ vật tới nơi làm lễ cúng, thầy cúng là một người có uy tín trong dòng họ, được người dân nể trọng.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 7Thầy cúng tiền hành các nghi lễ cúng chín dâng thần linh. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ được bày biện trên một cái bàn 4 chân gồm có 1 con dê, 1 con gà, 3 miếng đậu phụ, 3 miếng bánh chưng cắt nhỏ đặt trước ban thờ, tiếp đó con cháu mang con vật cúng dâng lên Thần Rừng.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 8Thầy cúng thực hiện các nghi lễ cúng thần linh. Ảnh: Hoàng Hải

Những lời cầu khấn trong lễ cúng đều thể hiện sự thành kính của con cháu dòng họ với thần rừng, thần trời, thần đất mời các thần đến chứng kiến và phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cầu cho rừng ngày một tươi tốt để che chở cho con cháu dòng họ và mọi người qua đường.

Tái hiện Lễ cúng thần rừng đầu nguồn của đồng bào dân tộc Mông ảnh 9Bà con làm các thủ tục để kết thúc buổi lễ cúng rừng. Ảnh: Hoàng Hải

Bà con trong thôn xin thề trước thần rừng sẽ bảo vệ giữ gìn rừng thật tốt, không săn bắn, không chặt phá, cầu mong được phù hộ từ thần rừng.

Hoàng Tâm

(DTMN)
Dân tộc Mông Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm