Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại

Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại

Cách đây gần một năm, Nghị quyết 41C/15 ngày 23/11/2021 của Đại hội đồng UNESCO thống nhất vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 250 năm sinh 200 năm mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương (1772-1822) - "Bà chúa thơ Nôm” của Việt Nam đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị về văn học nghệ thuật và đặc biệt là tư tưởng về bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ của nữ sỹ Hồ Xuân Hương, xứng tầm là một danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại, nhà thơ mang tầm vóc một thi hào.

Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại ảnh 1Quang cảnh Hội thảo khoa học quốc tế “Nữ sỹ Hồ Xuân Hương (1772-1822) - Danh nhân văn hóa và giá trị di sản". Ảnh: Tá Chuyên - TTXVN

Nữ sỹ Hồ Xuân Hương là một trong 6 danh nhân được UNESCO vinh danh cùng với Nguyễn Trãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An và Nguyễn Đình Chiểu.

 “Bà Chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương

“Bà Chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương nguyên quán ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), là nữ thi sỹ nổi tiếng và tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX.

Thơ Hồ Xuân Hương là biểu hiện của sự vận động, lạc quan. Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền từ quá khứ đến hiện tại. Các tác phẩm thơ của bà cũng mang nhiều nội dung về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam.

Trong gia tài thi ca của Hồ Xuân Hương cũng như trong thi đàn văn chương thời ấy, cách đây hơn 200 năm dưới chế độ phong kiến, chỉ có bà là nhà thơ nữ Việt Nam, người đầu tiên dám lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ cho nữ quyền qua tác phẩm thi ca. Những kiệt tác của bà để lại không chỉ được tôn vinh trong nước, mà có tầm ảnh hưởng thế giới, đến nay có hơn 10 quốc gia đã dịch và giới thiệu thơ của Hồ Xuân Hương.

Với nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm, thì đó là nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Ông khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhà viết thơ Nôm thuần túy, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ văn chữ Hán, với cách tả tình, tả cảnh, dùng ngữ hiệp vần rất khéo. Thời ấy, người ta còn chưa phát hiện ra Lưu hương ký.

Còn nhà thơ Xuân Diệu thì gọi thẳng bà là Nhà thơ dòng Việt, là Bà chúa thơ Nôm, kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất trong văn học Việt Nam, mà lại hai lần độc đáo, vì đó là một phụ nữ đã dám “Ví đây đổi phận làm trai được”, và Xuân Diệu cho rằng thực sự nàng đã làm trai rồi, ngay trong chế độ cũ. Thơ của người dám làm trai ấy lại hết sức phụ nữ, người đàn bà ấy đã cất tiếng lên thì đố ai đã nghe một lần lại có thể quên được, quên nổi: “Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường, một thứ thơ muốn lặn sâu vào sự vật, vào những đáy rất kín thẳm của tâm tư, những đáy kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa, mà trái lại, đã được hàng vạn, hàng vạn người đồng tình thông cảm”.

Danh tài độc đáo Hồ Xuân Hương, tên tuổi ấy vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình chiếm vị trí đặc biệt trong làng thơ Việt Nam với một di sản tinh thần tuy còn được lưu truyền không nhiều: bên cạnh tập Lưu hương ký mà từ khi được phát hiện, chưa mấy ai phủ định, nhưng mọi người hầu như vẫn dè dặt khi sử dụng tập thơ này, là dăm chục bài thơ tám câu bảy chữ hoặc bốn câu bảy chữ có một phong cách không trộn lẫn với ai, tuy còn một số bài vẫn ở dạng “tồn nghi”.

Người yêu văn chương Việt mấy ai mà không thuộc vài vần thơ tinh nghịch, đùa cợt, mỉa mai của Hồ Xuân Hương.

Các bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương được đánh giá là tuyệt bút, ý tưởng táo bạo. Ở một số bài thơ Nôm truyền tụng, tính chất xuân tình không còn là ẩn dụ, ví von nữa, mà được nêu một cách trực diện, thẳng thắn. Ví dụ dễ thấy nhất là bài Thiếu nữ ngủ ngày: “Mùa hè hây hẩy gió nồm đông/ Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng/ Lược trúc biếng cài trên mái tóc/ Yếm đào trễ xuống dưới nương long/ Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm/

Một lạch đào nguyên nước chửa thông/ Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở, ở không xong”.

Trong thơ bà, còn thấy ý thức phản kháng, cái nhìn đối lập với truyền thống lề lối cũ đang mục rữa. Bản thân là người có bản lĩnh tự tin mạnh mẽ, Hồ Xuân Hương chế diễu, đả kích cả một xã hội phong kiến với giọng đường hoàng, dõng dạc, chủ động.

Tại Hội thảo khoa học quốc tế “Nữ sỹ Hồ Xuân Hương (1772-1822) - Danh nhân văn hóa và giá trị di sản" (sáng 3/12/2022, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức), Phó giáo sư, tiến sỹ Biện Minh Điền, giảng viên cao cấp Trường Đại học Vinh cho rằng Hồ Xuân Hương qua các thi tập đa dạng, độc đáo, tài hoa của bà như "Thơ nôm truyền tụng" (mảng thơ viết bằng chữ Nôm, được truyền tụng phổ biến trong dân gian, khoảng trên 100 bài), "Lưu hương ký" (gồm 24 bài thơ chữ hán và 28 bài thơ Nôm), "Hương đình cổ nguyệt thi tập" (gồm 9 bài thơ chữ Hán), "Đồ Sơn bát vịnh" (gồm 8 bài thơ chữ Hán), "Đề Vịnh Hạ Long" (gồm 5 bài thơ chữ Hán)… đã khẳng định tài năng thơ ca và cái tôi rất riêng của nữ sỹ.

Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại ảnh 2Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772- 1822) – Danh nhân văn hóa và giá trị di sản. Ảnh: Tá Chuyên - TTXVN
Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại ảnh 3Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam Christian Manhart phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Tá Chuyên - TTXVN
Nữ sỹ Hồ Xuân Hương - danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại ảnh 4Bà Eva Antoshchenko Muckova - dịch giả Slovakia, chuyên gia văn học Văn học Việt Nam trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh: Tá Chuyên - TTXVN

Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống, quyền yêu đương, hạnh phúc cho con người, trước hết là người phụ nữ. Con người trong thơ bà là con người với tư cách là những thực thể tồn tại trên mặt đất với mọi nhu cầu trần thế, nhu cầu hiện sinh chính đáng. Có thể nói tiếng nói vang dội nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh đòi nữ quyền (quyền bình đẳng, quyền được yêu thương, hạnh phúc, quyền được công khai hiện diện trong cuộc sống) với tất cả những gì mà tạo hóa ban cho họ. Điều này được thể hiện trong các bài thơ của bà như "Bánh trôi nước", "Thiếu nữ ngủ ngày", "Đèo Ba Dội", "Động Hương Tích," "Vịnh cái quạt", "Dệt cửi" ,"Đánh đu". “Song song với tiếng nói đánh thức, khơi gợi diệu kỳ khó ai có thể làm được ấy là tiếng nói phê phán mạnh mẽ các thế lực (chế độ phong kiến, giáo lý Nho giáo, các giới, loại người “phàm phu, tục tử”) đã tạo ra những ràng buộc vô lý đối với con người, tạo ra sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ, tạo ra những lề thói, hủ tục cản trở sự tiến bộ (Lấy chồng chung, Không chồng mà chửa, Thân phận người đàn bà).

Nữ sỹ Hồ Xuân Hương không chỉ được đánh giá cao ở trong nước. Chính sự đánh giá cao của nhiều người nước ngoài càng làm chúng ta thêm tự tin. R. Tago trước kia và sau này là nhà thơ Pháp có tên tuổi ở châu Âu - Jăng Rixtal - trong bài Tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp, đã coi Hồ Xuân Hương là “một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của châu Á”.

Cho đến năm 2021, thơ Hồ Xuân Hương đã được dịch ra 13 thứ tiếng khác nhau trên thế giới, trong đó tiếng Việt qua thơ Hồ Xuân Hương là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật đa nghĩa, nhiều hàm ý, sắc sảo, độc đáo và tài hoa, đầy thách thức đối với các “tài tử," “văn nhân” đương đại khi chuyển ngữ, dịch thơ bà sang tiếng nước mình.

Ẩn chứa rất nhiều bí ẩn chưa có lời giải

Mặc dù được nhân dân tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”, nhưng đã 250 năm, kể từ ngày sinh và 200 năm ngày mất của Hồ Xuân Hương, nhưng công trình nghiên cứu khoa học về thân thế của bà lại quá ít.

Xưa nay, người ta thuộc thơ Hồ Xuân Hương, biết chuyện tình của nữ sĩ qua bài thơ Khóc Tổng Cóc “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!/Thiếp bén duyên chàng có thế thôi/Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé/Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi” và bài thơ Khóc ông Phủ Vĩnh Tường “Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi/Cái nợ ba sinh đã trả rồi/Chôn chặt văn chương ba tấc đất/Tung hê hồ phỉ bốn phương trời/ Cán cân tạo hóa rới đâu mất/ miện túi càn khôn khép lại rồi/ Hai bảy tháng trời đà mấy chốc/ Trăm năm ông phủ VĩnhTường ôi”... Còn cuộc đời của Hồ Xuân Hương ra sao, đã trải qua những nỗi bất hạnh nào để có duyên thơ, thì đến nay vẫn là huyền bí.

Sách Giai nhân di mặc (tác giả Nguyễn Hữu Tiến) viết Hồ Xuân Hương là con của cụ tú tài Hồ Phi Diễn (người Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An) với người vợ thứ; được sinh ra tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây hiện nay). Còn theo học giả Trần Thanh Mại, cha của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh (cũng người Nghệ An) với người vợ lẽ là Hà Thị.

Phát biểu tại hội thảo “Nữ sỹ Hồ Xuân Hương (1772-1822) - Danh nhân văn hóa và giá trị di sản", Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương cho rằng trải qua hơn 200 năm xuất hiện trên văn đàn, nữ sỹ Hồ Xuân Hương vẫn là một hiện tượng văn học tài năng nhưng ẩn chứa rất nhiều bí ẩn, chưa có lời giải đáp. Phong cách với cá tính sáng tạo độc đáo của Hồ Xuân Hương chắc chắn sẽ còn là vấn đề hấp dẫn cho những công trình nghiên cứu trong tương lai.

Với tấm lòng yêu mến, tâm huyết với việc tôn vinh và bảo vệ, phát huy di sản văn hóa gắn với nữ sỹ Hồ Xuân Hương, sự hiểu biết uyên thâm, trách nhiệm cao của các nhà khoa học, các nhà quản lý sẽ là sự tổng hợp, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc về tầm vóc nữ sỹ Hồ Xuân Hương trong lịch sử văn học Việt Nam và thế giới.

Phương Phương (Tổng hợp)

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm