Những thách thức trong việc điều trị người bị hội chứng COVID kéo dài

Hội chứng COVID kéo dài (Long COVID) mà các các nhà nghiên cứu gọi là Di chứng sau nhiễm trùng SARS-CoV-2 (PASC) được ghi nhận ở giai đoạn bình phục của nhiều bệnh nhân sau khi mắc COVID-19 nhưng việc điều trị cho người mắc hội chứng này đang gặp khó khăn gấp bội khi những nghiên cứu, dữ liệu về nguyên nhân dẫn tới hội chứng và sự chẩn đoán chính xác hội chứng ở thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều hạn chế và chưa có sự nhất quán.

Nhung thach thuc trong viec dieu tri nguoi bi hoi chung COVID keo dai hinh anh 1Nhân viên y tế điều trị cho bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện ở Brussels, Bỉ, ngày 6/4/2021. Ảnh: AFP/ TTXVN

Hiện có nhiều bệnh nhân COVID-19 sau thời gian bình phục vẫn liên tục thông báo về việc gặp nhiều vấn đề mới về sức khỏe ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận cơ thể.

Trong báo cáo ngày 8/3, các nhà nghiên cứu thuộc trung tâm y tế học thuật UCLA Health và trường Y David Geffen trực thuộc UCLA cùng với một đồng nghiệp thuộc tại Đại học Washington ở Seattle, đã chỉ ra rằng mặc dù cơ quan chức năng Mỹ đã đưa PASC vào danh sách các bệnh mà người Mỹ cần được bảo vệ cùng với Đạo luật về người khuyết tật - văn kiện yêu cầu sự nghiêm ngặt về thủ tục giấy tờ và pháp lý, hiện có rất ít dữ liệu nghiên cứu và quan điểm thống nhất về yếu tố cầu thành hội chứng COVID-19 kéo dài.
Bác sĩ Joann G. Elmore, Giáo sư Trường Y David Geffen nhấn mạnh giới nghiên cứu cần dữ liệu và thông tin chất lượng cao hỗ trợ chẩn đoán chính xác trước khi bệnh nhân có thể nhận được dịch vụ chăm sóc hỗ trợ thích hợp và liệu pháp hiệu quả, dành riêng cho bệnh. Nhấn mạnh tới vai trò của dữ liệu nghiên cứu, giáo sư cho rằng cộng đồng nghiên cứu khoa học sẽ cần cung cấp dữ liệu giúp cộng đồng y tế phân biệt các triệu chứng COVID kéo dài với các triệu chứng của các bệnh khác.

Cho đến nay, mặc dù nhiều nghiên cứu đang được tiến hành, các tác giả báo cáo cho rằng việc so sánh hữu ích giữa các nghiên cứu gần như không thể thực hiện nếu không có các tiêu chí được áp dụng thống nhất. Báo cáo cũng chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu phải đối mặt với các vấn đề gây nhiễu trong quá trình thiết lập nghiên cứu có thể làm sai lệch kết quả, chẳng hạn như những sai lệch có thể xuất phát từ hồi ức của chính bệnh nhân và cách giải thích các triệu chứng của bác sĩ lâm sàng.

Ngoài sai lệch về thu hồi và giám sát, báo cáo cũng cho rằng sự thiên vị đối tượng lựa chọn nghiên cứu và tiếp cận chăm sóc sức khỏe có thể tạo ra kết quả sai lệch trong các thông tin nghiên cứu.

Tiến sĩ Lauren E. Wisk thuộc UCLA Health cho rằng: "Những người vốn dĩ dễ chịu nhiều tổn thương do sự chênh lệch về kinh tế xã hội và chủng tộc hoặc sắc tộc - những người thường bị hạn chế tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe - đã phải chịu gánh nặng của đại dịch COVID-19 một cách không cân xứng". Do đó, theo ông, cần chú trọng sự bất bình đẳng này khi tiến hành nghiên cứu, thu thập tài liệu về COVID-19 kéo dài.

Trong báo cáo này, các tác giả đưa ra các giải pháp tiềm năng để đảm bảo công bằng trong nghiên cứu và điều trị trong tương lai như trước tiên hối thúc cộng đồng y tế cùng nhau đưa ra một định nghĩa cụ thể những những trường hợp mắc PASC; Thực hiện các biện pháp mạnh mẽ và chuẩn hóa về các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn và kết quả kiểm tra sức khỏe; Xem xét rủi ro sai lệch khi xây dựng các nghiên cứu; Thực hiện các bước để tạo điều kiện so sánh giữa các nghiên cứu; và thận trọng trong việc áp dụng bằng chứng đã thu thập được để có được phương pháp chăm sóc, điều trị hiệu quả.

Lan Phương

Tin liên quan

Người bệnh nào có nguy cơ cao mắc hội chứng hậu COVID-19?

Từ sau Tết Nguyên Đán đến nay, số bệnh nhân mắc COVID-19 tăng lên nhanh. Phần lớn các bệnh nhân được theo dõi điều trị khỏi bệnh, tuy nhiên có rất nhiều bệnh nhân sau khi khỏi COVID-19 có các triệu chứng kéo dài vài tuần tới vài tháng, một số trường hợp để lại di chứng nặng nề. Các triệu chứng hay gặp sau nhiễm COVID-19 biểu hiện ở đa cơ quan, trong đó các biểu hiện về hô hấp là phổ biến. Một số nghiên cứu cho thấy: ho khan kéo dài, hụt hơi, khó thở là những triệu chứng dai dẳng và phổ biến, gặp từ 42 - 66% trong vòng 3 tháng sau nhiễm COVID -19.


Ít trẻ em nhiễm biến thể Omicron mắc hội chứng hậu COVID-19

Kết quả phân tích, đánh giá các dữ liệu tổng hợp cho thấy đa phần trẻ em nhiễm biến thể Omicron đều không xuất hiện hội chứng hậu COVID-19. Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu dịch tễ học và vi sinh vật học Moksva mang tên Gnaihevsky thuộc Cục Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và sức khỏe con người - Rospotrebnadzor, bà Tatyana Ruzhentsova đã đưa ra tuyên bố này.


4 yếu tố xác định mắc hội chứng "COVID kéo dài"

Theo một nghiên cứu mới đăng tải ngày 26/1 trên tạp chí Cell, một ấn phẩm khoa học đã được thẩm định, có 4 yếu tố chính để xác định một người có bị hội chứng "COVID kéo dài" (Long COVID) hay không.


Hội chứng hậu COVID-19 – Làm gì để vượt qua?

Tại Việt Nam hiện có hơn 2 triệu ca mắc COVID-19, chiếm gần 2% dân số. Trong số đó có nhiều bệnh nhân mắc hội chứng hậu COVID-19 với các triệu chứng phổ biến là mệt mỏi, khó thở, giảm tập trung, rối loạn giấc ngủ, thậm chí rối loạn nhận thức... Những triệu chứng này có thể là những triệu chứng mới khởi đầu sau khi hồi phục COVID-19 hoặc dai dẳng kéo dài từ khi mới nhiễm bệnh. Tuy nhiên, đến nay ngành chức năng vẫn chưa có thống kê, ghi nhận một cách đầy đủ về tình hình hậu COVID-19 trong cộng đồng, cũng như phác đồ điều trị hậu COVID-19.


Những điều cần biết về chứng COVID kéo dài

Chứng COVID kéo dài (Long Covid) được coi là một nguy cơ đối với y tế cộng đồng ẩn sau đại dịch COVID-19. Giới khoa học đang trong giai đoạn đầu phát triển và bào chế thuốc điều trị nhằm giảm các triệu chứng bệnh, đồng thời nghiên cứu những nguyên nhân chưa có lời giải về triệu chứng này. Mới đây, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học bang Pennsylvania đã thực hiện một công trình nghiên cứu khổng lồ mới, trong đó phát hiện rằng hơn 50% trong số 236 triệu người mắc COVID-19, tính đến thời điểm tiến hành nghiên cứu, có các triệu chứng COVID kéo dài trong hơn 6 tháng.



Đề xuất