Những “sứ giả” của văn hóa Thái

Bà Sầm Thị Xanh - "sứ giả" văn hóa bản Hoa Tiến chuẩn bị đón tiếp khách du lịch. Ảnh: Bích Huệ - TTXVN
Bà Sầm Thị Xanh - "sứ giả" văn hóa bản Hoa Tiến chuẩn bị đón tiếp khách du lịch. Ảnh: Bích Huệ - TTXVN

Từ lâu, du khách đã quá quen với những người trẻ làm du lịch, thế nhưng ở làng văn hóa cộng đồng bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, du khách lại rất thích thú với hình ảnh người hướng dẫn viên cao tuổi. Với những người cao tuổi ở bản Hoa Tiến, đây lại là cơ hội để họ được giới thiệu và quảng bá giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình và họ tự hào về điều này.

Những “sứ giả” của văn hóa Thái ảnh 1Những người dân bản Đồng Tiên biết lưu giữ và bảo tồn văn hóa của dân tộc đồng thời quảng bá những giá trị tốt đẹp đến với đông đảo du khách gần xa. Ảnh: Bích Huệ - TTXVN

Đã từng đứng trên bục giảng, có khả năng diễn đạt tốt nên khi bản Hoa Tiến được tỉnh Nghệ An chọn để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng, bà Sầm Thị Xanh được mọi người tín nhiệm nhờ làm “hướng dẫn viên du lịch”. Ban đầu khi đón nhận nhiệm vụ, bà cũng chỉ nghĩ “vui” thôi, “biết cái gì thì nói cái nấy”. Vậy mà, gắn bó với “nghề tay trái”, hàng ngày được tiếp xúc với nhiều đoàn khách, gặp gỡ nhiều người, bà bắt đầu yêu thích công việc này. “Làm hướng dẫn viên khác nhiều so với làm giáo viên bởi mình phải tùy từng đoàn khách, tùy từng đối tượng khác nhau để lựa chọn chủ đề phù hợp. Bên cạnh đó, mình cũng phải luyện tập để nói sao cho du khách hiểu và yêu quý văn hóa của dân tộc mình”, bà Sầm Thị Xanh cho biết.

Nắm bắt thị hiếu của khách du lịch đến Hoa Tiến là muốn tìm những bản sắc riêng mang đậm giá trị văn hóa của người Thái, thế nên ngoài tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về văn hóa truyền thống của dân tộc, phong tục tập quán của người dân địa phương, bà Xanh cũng đã kết hợp với các Công ty lữ hành để xây dựng những chương trình du lịch lý thú, viết lời mới cho nhiều bài hát trên nền làn điệu các bài dân ca của người Thái và dàn dựng, sân khấu hóa lại các tác phẩm để du khách có những trải nghiệm đáng nhớ khi tham gia tour du lịch cộng đồng ở bản Hoa Tiến. “Đến đây du khách được nghe các làn điệu dân ca, dân vũ của người Thái, cùng người dân trong xã dệt thổ cẩm, thưởng thức các món ăn truyền thống... Cá nhân tôi có thể hát, có thể dệt và cả diễn xướng những làn điệu của dân tộc mình”, bà Xanh nói thêm.

Những “sứ giả” của văn hóa Thái ảnh 2Bà Sầm Thị Xanh - "sứ giả" văn hóa bản Hoa Tiến chuẩn bị đón tiếp khách du lịch. Ảnh: Bích Huệ - TTXVN

Bà Lô Thị Nga cũng là một trong những phụ nữ năng động ở bản Hoa Tiến. Hiện nay, bà cùng con gái quản lý một nhà sàn truyền thống dùng để làm "home stay" đón khách du lịch. Đến với ngôi nhà sàn giản dị của gia đình bà, du khách dễ dàng cảm nhận được sự khéo léo của bàn tay người phụ nữ khi từng góc bếp, từng hiên nhà đến nơi ăn, chốn ngủ và cả nơi nghỉ ngơi được bà và con gái chăm chút tỉ mỉ, chu đáo. Bà Nga cũng là một trong những phụ nữ cao tuổi vẫn duy trì nghề dệt thổ cẩm truyền thống và khách đến với gia đình bà đều rất thích thú khi được trải nghiệm công việc rất đỗi thân quen này. Qua trò chuyện, bà Lô Thị Nga cũng rất vui bởi từ khi kinh doanh loại hình du lịch cộng đồng gia đình bà được tín nhiệm và được nhiều khách du lịch lựa chọn. Điều này không chỉ giúp gia đình tăng thêm thu nhập, quan trọng hơn là ngày càng có nhiều người yêu văn hóa và những giá trị truyền thống của dân tộc Thái.

Vài năm gần đây, bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến đã có tên trên bản đồ du lịch và là điểm đến cho những người yêu loại hình du lịch cộng đồng, thích khám phá những điểm mới. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng Hoa Tiến khó có thể thành công nếu không có những người dân bản địa biết lưu giữ, bảo tồn văn hóa dân tộc và đang nỗ lực để quảng bá những giá trị tốt đẹp đến với đông đảo du khách gần xa.

Cũng với ý nghĩa này, từ năm 2014, bản Hoa Tiến đã thành lập Câu lạc bộ bảo tồn văn hóa Thái. Từ 8 thành viên đầu tiên là những người có cùng sở thích hát những làn điệu dân ca Thái, nay Câu lạc bộ đã phát triển lên đến 38 người, trong đó có những người đã được phong Nghệ nhân ưu tú như bà Sầm Thị Vinh. Hiện Câu lạc bộ không chỉ sinh hoạt ở một mảng là dân ca, dân vũ, mà có nhiều mảng khác nhau. Ông Lô Đức Mậu, Chủ nhiệm Câu lạc bộ chuyên về tiếng nói, chữ Thái cổ, bà Sầm Thị Vinh thiên về truyền dạy các làn điệu dân ca Thái như hát Suối, hát Lăm, hát Nhuôn, hát Hắp Lai...; bà Sầm Thị Xanh phụ trách về dân ca, tâm linh.

Các thành viên trong Câu lạc bộ bảo tồn văn hóa Thái từ già đến trẻ cũng đã trở thành những “sứ giả” quảng bá, giới thiệu du lịch cộng đồng. Vì thế, mỗi khi có đoàn khách đến với Châu Tiến, Câu lạc bộ dàn dựng chương trình, tổ chức biểu diễn văn hóa, văn nghệ cho khách du lịch. Các bà, các chị cũng sẽ là những đầu bếp nấu những món ăn mang đậm truyền thống của người dân bản xứ để giới thiệu cho du khách.

Những nỗ lực của các thành viên đã đưa Câu lạc bộ bảo tồn văn hóa Thái của bản Hoa Tiến ngày một phát triển và đã đạt mô hình cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Câu lạc bộ cũng thu hút nhiều thành viên đến từ các xã khác cùng tham gia với nhiều hoạt động ngày càng phong phú và bổ ích... Sự cố gắng của các thành viên cũng đã góp phần quan trọng để lưu giữ những giá trị truyền thống và đưa văn hóa của người Thái huyện Quỳ Châu đến gần hơn với du khách thập phương. Đây cũng là yếu tố làm nên nét đặc sắc của riêng khu du lịch cộng đồng bản Hoa Tiến - Quỳ Châu.

Bích Huệ

(TTXVN)
Dân tộc Thái Dân tộc Thái

Tên tự gọi: Tay hoặc Thay

Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.

Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).

Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.

Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.

Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.

Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...

Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.

Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.

: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.

Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).

Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:

Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.

Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.

Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:

Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).

Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.

Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.

Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.

Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.

Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.

Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.

Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm