Những mô hình khoa học công nghệ xây dựng nông thôn mới mang lại hiệu quả kinh tế cao

Những mô hình khoa học công nghệ xây dựng nông thôn mới mang lại hiệu quả kinh tế cao

Là một quốc gia có lợi thế so sánh đặc biệt về nông nghiệp trên nhiều khía cạnh về tài nguyên thiên nhiên (đất đai, khí hậu, địa hình…) và truyền thống sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, Việt Nam đã trải qua 30 năm đổi mới thành công. Khu vực nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn định kinh tế xã hội. Đó là đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho gần 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo…

Trong đó Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo nên nhiều mô hình vượt trội trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, vừa bảo vệ được môi trường. Đây chính là lý luận và thực tiễn trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Những mô hình khoa học công nghệ xây dựng nông thôn mới mang lại hiệu quả kinh tế cao ảnh 1Nông dân An Giang đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại. Ảnh: Công Mạo - TTXVN

Về lĩnh vực thủy lợi có các mô hình nổi bật như: Gia tăng mực nước ngầm trong đồi cát từ 2,5-4m phục vụ nước tưới và nước sinh hoạt; giảm giá thành đầu tư, nâng cao hiệu quả khai thác công trình nước sạch, thủy lợi nội đồng; tiết kiệm nước tưới 20- 30%, đồng thời tăng năng suất cây trồng trên 10%; giúp nhiều địa phương chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp tăng hiệu quả 5-7 lần; cải thiện điều kiện môi trường, bảo vệ đất chống bạc màu, xói mòn, giảm phát thải 1,5 tấn CO2 /vụ/ha lúa, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu

Về lĩnh vực môi trường nông thôn có các mô hình: Tổ chức quản lý tổng hợp chất thải ở xã xây dựng nông thôn mới vùng Đồng bằng sông Hồng, góp phần tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch đẹp, cho hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt. Nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp tự nguyện phí vệ sinh môi trường của người dân được nâng cao, doanh thu phí vệ sinh môi trường ở các xã tăng gấp 2 đến 3,5 lần, tạo điều kiện ổn định công việc và tăng thêm thu nhập cho công nhân thu gom rác 30-70%.

Tỷ lệ rác thải được thu gom, chế biến thành phân hữu cơ, khí biogas, chế phẩm vi sinh tăng 147%; tỷ lệ rác thải được xử lý bằng lò đốt tăng 220%; tỷ lệ rác thải phải chôn lấp giảm từ 45% xuống còn 20%. Mô hình đã trình diễn các giải pháp công nghệ, tổ chức quản lý môi trường phù hợp với điều kiện cấp xã, có thể mở rộng ứng dụng cho các xã.

Đã có nhiều mô hình liên kết doanh nghiệp – nông dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các mô hình đã giúp tăng năng suất cây trồng 30-35% đối với rau màu, 10-15% đối với lúa, tăng thu nhập cho người dân tham gia dự án trên 25%; nâng cao giá trị sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đến 133 - 500 triệu đồng/ha/năm nhờ chuyển đổi cơ cấu nuôi trồng ở các mô hình liên kết sản xuất. Nông dân ở nhiều địa phương đã được hưởng lợi từ các mô hình này. Trong đó một số mô hình có hiệu quả tiêu biểu ở một số vùng như mô hình chuyển đổi từ ngô, lúa một vụ kém hiệu quả sang trồng cây dược liệu ở Hà Giang, đạt 133 triệu đồng/ha/năm, tạo việc làm cho người dân và tăng thu nhập cho người dân tham gia dự án từ 35-40 triệu đồng/người/năm. Các mô hình liên kết ứng dụng đồng bộ tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè xanh chất lượng cao ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Hà Giang đã tăng năng suất chè gần 30%; tăng giá trị sản phẩm chè chế biến 20-26,2%; tăng thu nhập của một ha gần 30% so với đối chứng.

Mô hình liên kết ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật và quản lý trong sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sắn nhằm tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo cho đồng bào dân tộc miền núi, đạt trung bình năng suất từ 35-40 tấn/ha cao hơn so với mô hình canh tác giống cũ từ 15 đến 20 tấn/ha. Hiệu quả thu nhập trung bình đạt từ 52,5 đến 60 triệu đồng/ha.

Văn Hào

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm