Nghệ thuật nhạc trống lớn: "Báu vật" tinh thần của người Khmer ở Cà Mau

Nghệ nhân ấp Cây Khô, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau biểu diễn nghệ thuật nhạc trống lớn. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN
Nghệ nhân ấp Cây Khô, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau biểu diễn nghệ thuật nhạc trống lớn. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN

Nghệ thuật nhạc trống lớn (Plêng Skôr Thum) ra đời, tồn tại và trao truyền hơn 100 năm qua ở vùng đất Cà Mau. Người Khmer ở Cà Mau luôn tin rằng, âm nhạc chính là linh hồn của họ. Họ xem nhạc trống lớn như “báu vật” không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần cần được gìn giữ, phát huy.

Giàu bản sắc truyền thống

Không riêng tại Cà Mau, bất kể nơi nào trên vùng Nam Bộngười Khmer sinh sống đều có quan niệm rằng, âm nhạc chính là linh hồn trong đời sống văn hóa tinh thần của họ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, người dân nơi đây không ngừng sáng tạo và giữ gìn kho tàng văn hóa nghệ thuật vô cùng phong phú, đa dạng, đa sắc màu riêng biệt. Trong đó, bà con rất xem trọng chiếc trống lớn, coi đây là vật linh thiêng, “báu vật” trong đời sống tinh thần… thường được cất giữ ở các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer.

Nghệ nhân Hữu Qual, sinh hoạt trong nhóm trống lớn của chùa Cao Dân (huyện Thới Bình) cho biết, trống lớn không chỉ được người Khmer sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội trang trọng mà còn là phương tiện thông tin đến phật tử thời gian nhập hạ của các vị sư.

Trống lớn là vật linh thiêng không ai dám sử dụng một cách tùy tiện mà chỉ dùng để đánh trống báo tin cho đồng bào phật tử đến chùa hoặc đến ngày lễ… Trống lớn thường được bảo quản nơi sạch sẽ và treo cao trong ngôi sala hoặc ngôi chính điện của chùa, nghệ nhân Hữu Qual chia sẻ.

Nghệ thuật nhạc trống lớn: "Báu vật" tinh thần của người Khmer ở Cà Mau ảnh 1Biểu diễn dàn nhạc trống lớn tại Chùa Rạch Giồng, ấp Đường Đào, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Huỳnh Anh – TTXVN

Nghệ thuật nhạc trống lớn là thể loại âm nhạc đặc biệt, với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Tùy từng bối cảnh nghi thức, nghi lễ các nghệ nhân cùng chơi những bản nhạc khác nhau. Chia sẻ thêm về nét độc đáo này, ông Thạch Nam Phương, Trưởng phòng Nghiệp vụ Bảo tàng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau dẫn chứng, tùy theo từng bối cảnh nghi thức, nghi lễ các nghệ nhân cùng chơi bài có giai điệu và cung bậc cảm xúc khác nhau như: buồn bã, chậm rãi, dìu dặt trong lễ tang; giai điệu trầm hùng, vang vọng chiến thắng trong lễ hạ thủy đua ghe Ngo; giai điệu nhẹ nhàng, hạnh phúc trong lễ cưới; giai điệu thanh thoát, hướng thiện trong các lễ nghi tôn giáo…

Dàn nhạc trống lớn gồm 15 loại nhạc cụ, gồm: Skor Thom, Koông Thom, Skor Đay (2 cái), T’ruô - U, T’ruô - Khse bây (T’ruô Khmer, T’ruô Nguôk), T’ruô - sô, Chapay-chomriêng, Pay Puốc, Pay - O, Khloy, Khưm, Chhưng, Tà Khê và Krap.

Các nghệ nhân cho biết, nghệ thuật nhạc trống lớn ở Cà Mau do ông Hữu Pinh, Hữu Mốt (từ Trà Vinh xuống Cà Mau lập gia đình, sinh sống ở vùng đất Tân Lộc, thuộc huyện Thới Bình) mang theo, thể hiện từ những năm cuối thế kỷ XIX.

Đến năm 1922, các vị sư, đồng bào phật tử và người dân lân cận góp vốn xây dựng chùa Trâu Trắng (Bạch Ngưu), nhạc trống lớn ở khu vực này bắt đầu được hình thành và thường xuyên chơi tại đây. Đến năm 1958, chùa đã dời về dọc tuyến Quốc lộ 63 và được đổi thành tên chùa Cao Dân (ngày nay). Cùng với việc xây dựng chùa, nhạc trống lớn dần đi vào ổn định. Đặc biệt, ở một số huyện có đông người Khmer sinh sống, khi diễn ra lễ hội lớn tại chùa, phum, sóc hoặc nhà của người dân, bà con sẽ mời nhóm nhạc ở phum, sóc khác đến cùng phục vụ diễn tấu.

Nghệ thuật nhạc trống lớn: "Báu vật" tinh thần của người Khmer ở Cà Mau ảnh 2

Cộng đồng của người Khmer ở tỉnh Cà Mau đã giữ gìn một kho tàng văn hóa nghệ thuật vô cùng phong phú, đa dạng, đa sắc màu riêng biệt. Ảnh: Huỳnh Anh – TTXVN

Ông Thạch Nam Phương cho biết thêm, nghệ thuật nhạc trống lớn là thể loại nghệ thuật âm nhạc đặc biệt được sử dụng trong lễ hội của đồng bào Khmer Cà Mau. Thời gian qua, dàn nhạc trống lớn của dân tộc Khmer huyện Thới Bình (tỉnh Cà Mau) đã được phát huy giá trị thông qua trưng bày tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, ở Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam…

Chung tay bảo tồn di sản

Hiện nay, tỉnh Cà Mau có 2 nơi trong huyện Thới Bình đang lưu giữ và phát huy nhạc trống lớn, gồm: Khu vực chùa Rạch Giồng, chủ yếu là ấp Cây Khô, xã Hồ Thị Kỷ và chùa Cao Dân, ấp 7, xã Tân Lộc, với khoảng 30 nghệ nhân tham gia.

Năm 2022, niềm vui của đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau được nhân lên khi nghệ thuật nhạc trống lớn được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Điều này không chỉ là niềm vinh dự và tự hào của đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh nói chung, huyện Thới Bình nói riêng mà còn góp phần trong việc gìn giữ, phát huy và bảo tồn giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh tốt hơn nữa thời gian tới.

Nghệ thuật nhạc trống lớn: "Báu vật" tinh thần của người Khmer ở Cà Mau ảnh 3Không riêng tại Cà Mau mà bất kể nơi nào trên vùng Nam Bộ có người Khmer sinh sống đều có quan niệm rằng, âm nhạc chính là linh hồn trong đời sống văn hóa tinh thân của họ. Ảnh: Huỳnh Anh – TTXVN

Biết tin nghệ thuật nhạc trống lớn của người Khmer được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ông Hữu Thảo, Bí thư Chi bộ ấp Đường Đào, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình cho biết, ông cùng bà con trên địa bàn ấp đều không giấu nổi niềm tự hào khi giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào được tôn vinh.

Ông Hữu Thảo khẳng định, nghệ thuật nhạc trống lớn từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào Khmer trên địa bàn. Bởi cứ vào mỗi dịp lễ, hội đặc biệt, dàn nhạc trống lớn sẽ được biểu diễn để bà con cùng đến xem.
Trước đây, trên địa bàn ấp thành lập câu lạc bộ biểu diễn nhưng chỉ duy trì được một thời gian. Do đó, khi Nghệ thuật nhạc trống lớn được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, bà con không chỉ vui mừng mà còn tin tưởng rằng, giá trị di sản văn hóa quý báu của đồng bào Khmer sẽ được gìn giữ, phát huy, lưu truyền tốt hơn trong thời gian tới, ông Hữu Thảo tin tưởng.

Ông Trần Minh Nhân, Phó Chủ tịch UBND huyện Thới Bình cho biết, nghệ thuật nhạc trống lớn của người Khmer được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia khẳng định giá trị và sự đóng góp to lớn trong kho tàng văn hóa của đồng bào Khmer nói riêng, nhân dân huyện Thới Bình nói chung. Điều này góp phần thiết thực vào việc giữ gìn sự phong phú, đa dạng của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam.

Nghệ thuật nhạc trống lớn: "Báu vật" tinh thần của người Khmer ở Cà Mau ảnh 4Nghệ nhân ấp Cây Khô, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau biểu diễn nghệ thuật nhạc trống lớn. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau Trần Hiếu Hùng cho biết, dàn nhạc trống lớn có vị trí quan trọng, không thể thiếu trong đời sống cộng đồng của người Khmer tại địa phương. Thời gian tới, ngành tiếp tục phối hợp với địa phương củng cố, kiện toàn các câu lạc bộ, nhóm nhạc để bảo vệ và phát huy giá trị di sản…

Được biết, nghệ thuật nhạc trống lớn của người Khmer, huyện Thới Bình là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia thứ 4 tại Cà Mau và là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia đầu tiên của đồng bào Khmer địa phương.

Huỳnh Anh

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm